Top 7 Bài văn phân tích bài thơ Dương phụ hành (Ngữ văn 11) hay nhất

Thai Ha 1168 0 Báo lỗi

Cuộc đời của Cao Bá Quát, một trong những nhà thơ lớn của dòng văn học cổ điển Việt Nam, đánh dấu bằng sự kháng cự và tìm hiểu sâu sắc, đã để lại những dấu ấn ... xem thêm...

  1. Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, một tên tuổi sáng chói của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX. Ông nổi tiếng bởi nhân cách cứng cỏi, ngang tàng và văn tài sắc sảo, mới mẻ. Thơ ông có thể ví là cây đàn điệu hết sức phong phú về nội dung cảm hứng. Đó là những tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, là sự đồng cảm sâu sắc với bao người khổ đau, bất hạnh, là niềm tự hào về quá khứ lịch sử của dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến đương thời. Đặc biệt, khác với nhiều cây bút cùng thời, qua sáng tác của mình, Cao Bá Quát bộc lộ một trí tuệ sáng suốt, nhạy cảm tiếp nhận những hương vị, màu sắc xa lạ với quan niệm truyền thống và một tâm hồn phóng khoáng biết hướng tới cái đẹp đích thực không bị bó buộc, đóng khung bởi những khuôn khổ của tình cảm theo lễ giáo Khổng - Mạnh.


    Ở Bài hành về người, thiếu phụ phương Tây được sáng tác trong dịp Cao Bá Quát theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán ở Inđônêxia. Tiếng là được “dương trình hiệu lực” nhưng thực chất là điều đi phục dịch để “lấy công chuộc tội”. Tuy thế “có cuộc hoạn du mới biết cá lớn nghìn dặm”, trên hải trình công cán, nhà thơ mới có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, với một nền văn minh xa lạ, từ đó mở rộng tầm mắt và tâm hồn. Đặc biệt, chuyến đi đã giúp tác giả phát hiện ra những nét mới đáng yêu của người đàn bà Tây phương và trong mắt Cao Bá Quát, người đàn bà Tây Phương hiện lên thật sinh động, hấp dẫn:


    Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,

    Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,


    Cuộc đời nhiều thăng trầm và bôn ba đã rèn cho Cao Bá Quát năn lực quan sát nhạy bén, sắc sảo. Chỉ vài chi tiết cụ thể theo lối tả thực, nhà thơ đã khắc họa được một hình ảnh đầy ấn tượng. Đó là màu áo trắng - “ tuyết” của người thiếu phụ Tây dương. Người phương Đông vốn vẫn coi màu trắng là màu của tang tóc. Ở đây, tác giả kín đáo cảm nhận màu áo đó như một vẻ đẹp. Tinh ý, ta có thể nhận thấy điều đó qua lối so sánh. Nhưng lạ hơn là hành vi của nàng “Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu”. Người đàn bà Phương Đông mẫu mực, hiền thục là ke lo phận sự “nàng không sửa túi” cho chồng và cũng chỉ quen với việc “cử án tề mi” đâu có dám "tựa vai chồng” để cùng ngồi ngắm tráng một cách vừa “thiếu ý tứ“ vừa “vô lè’" như vậy? ơ đây, thậm chí, còn ngồi ngay trước sự quan sát của tất cả mọi người. Nhưng không thể phủ nhận đó là một cảnh rất đẹp. Màu trắng của áo, ánh sáng cua vầng trăng và cử chỉ tựa vai chồng thật trữ tình, lãng mạn. Chắc chắn, đăng sau những nét bút miêu tả đó là cái nhìn ngạc nhiên, thú vị. Thú vị hơn vẫn là những cử chỉ thân mật, tự nhiên của nàng:


    Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,

    Kéo áo rầm rì nói với nhau


    Nhưng tất cả những điều đó chưa gây ngạc nhiên bằng những hình ảnh tiếp theo sau này:

    Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,

    Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay!

    Uốn éo đòi chồng năng đỡ dậy.


    Chỉ thấy ở người thiếu phụ ấy vẻ kiều mị, duyên dáng. Cả cái nghiêng mình nũng nịu đòi sự chăm sóc chiều chuộng của chồng vẫn thật dễ thương. Tất cả đều được quan sát bằng một đôi mắt thật tinh tế và một ngòi bút miêu tả thật khách quan. Sự đồng cảm, tán thưởng chỉ được bộc lộ một cách kín đáo. Chính vì vậy mà hình tượng người đàn bà Tây dương trong bài thơ mới mang những nét riêng đặc sắc. Ngày nay, những lời nói, cử chỉ hồn nhiên kia đối với con người Việt Nam hiện đại là quá đỗi bình thường, thậm chí chẳng có mấy ý nghĩa đặc biệt. Nhưng với thời bấy giờ, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam còn bó buộc trong những quan điểm bảo thủ, thiển cận trong những lối tự tôn lố bịch, mù quáng thì việc tán thưởng, đồng tình với một vẻ dẹp xa lạ như thế là hành vi nghệ thuật thể hiện một quan niệm mới mẻ, hiện đại.


    Những mạch cảm xúc trữ tình của tác giả không dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh đầy gợi cảm về hình ảnh người thiếu phụ Tây dương, về cặp vợ chồng người Phương Tây dù được miêu ta rất thực, rất sinh động vẫn có vẻ như đóng vai trò của những chi tiết nhằm dồn nén cảm xúc để đến dòng thơ cuối cùng, con người ôm nỗi thống khố rối bời và đặc biệt kín đáo ấy không thể kìm giữ được nữa, phải thốt lên lời tự than:


    Biết đâu nỗi khách biệt li này!


    Tưởng đâu là nỗi sầu xa xứ. Không phải, nỗi biệt li được gợi lên từ cảnh hạnh phúc, trìu mến của lứa đôi. Và ta có thể đoán được dòng chảy ngầm của tâm trạng tác giả: nỗi khát khao hạnh phúc gia đình, nỗi nhớ nhung tình chồng vợ. Sự giãi bày này lại cũng là một phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc trong tâm hồn người trí thức ngang tàng, phóng túng.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Thông qua bài thơ ta thấy Cao Bá Quát có cái nhìn sắc sảo, tinh tế, nhạy cảm bắt nguồn từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, nhớ thương người thân, không chịu được những nghịch cảnh, trớ trêu đầu trên quê hương hay những nơi khác lạ. Sau khi được định tội, triều đình tạm tha cho Cao Bá Quát và cho đi xuất dương hiệu lực trong phái đoàn do Đào Phú Trí là trưởng đoàn, Trần Tú Dĩnh là phó đoàn. Ở triều Nguyễn, đối với một người có thể sử dụng mà không may mắc tội thì nhà vua thường tạm tha và phân phối đi đến một đồn quân nào đó phục dịch để chuộc tội. Đó là hình thức “quân tiền hiệu lực”. Hoặc khi có một phái bộ nào xuất dương đi giao thiệp với nước ngoài thì những phạm nhân ấy cũng được đi theo phục dịch để lấy công chuộc tội gọi là "dương trình hiệu lực”, Cao Bá Quát cũng được xử trí theo những “đặc ân” đó.

    Ngồi trên thuyền, giữa trùng dương rộng lớn, ông lại cảm thấy trong lòng đầy hào hứng, hùng khí lại ngùn ngụt như xưa:


    Gió Bắc đưa thuyền qua muôn trùng biển cả,

    Ta ngâm câu thơ dưới cánh buồm mát dịu,

    Có ai thử đem câu thơ kinh người của chàng Tiểu Tạ.

    Mà đề lên khắp cái núi ở chân trời kia!


    Khi cánh buồm lộng gió đi vào trời nước bao la, ông tự hỏi: “Có ai học được nét vẽ của Tôn Vị ngày xưa để thử vẽ cái cảnh hùng vĩ này của một chàng ngâm thơ trên đầu ngọn sóng!”.


    Ông ví mình như con hạc bị ốm, con chim hồng bị đau, đã bao lâu không con hi vọng, nên lại chắp cánh bay trên đường bay rộng lớn của chim bằng. Giận cho mình bao lâu chỉ làm một tài tử khốn cùng trong bút mực, anh trượng phu tầm thường giữa núi mây!


    Ra nước ngoài, tầm con mắt ngài thêm mở rộng. “Cuộc ngoạn du, mới biết cá lớn nghìn dặm. Kiến thức hẹp hòi, khác nào nhìn con báo qua một chiếc ống chỉ thấy nó có một vằn".


    Ông nghĩ tới lối học từ chương, thái độ đóng cửa không chịu tìm hiểu nước ngoài thật là nguy hiểm. Ý nghĩ này cọn được nêu lên trong bài ông đề cập Yên Đài Anh Ngữ của Bùi Ngọc Quỹ. Ông này đã đi sứ nước ngoài học được nhiều điều mới lạ. Cao tự trách mình: “Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai từng câu từng chữ. Có khác gì con sâu đo, muốn đo cả trời đất”.


    Phái đoàn của ông đi Inđônêxia và Campuchia mục đích chủ yếu là đem đường bán cho nước ngoài để mua sắm những hàng xa xỉ cho triều đình. Ra nước ngoài, ông đã thấy đời sống của người Tây phương, lại thấy cảnh người da đen kéo xe cho người da trắng, ông cũng phần nào nhận thức được sự phát triển của các Tây phương và nguy cơ bị xâm lược của các nước Á Đông. Lòng yêu nước được kích thích, ông càng nhìn rõ hơn sự nhu nhược và bất lực của triều đình, tin tưởng vào sức mạnh phản kháng của nhân dân trước nạn ngoại xâm”.


    Trở lại bài thơ Dương phụ hành, Cao Bá Quát như cầm bút viết ngay một cảnh tượng về cuộc sống của người phụ nữ Tây phương lướt qua con mắt quan sát của nhà thơ. Đây là một cuộc sống đối lập với người phụ nữ Việt Nam: Giữa cái thùy mị, kín đáo với cái nũng nịu phô trương từ cách ăn mặc đến cử chỉ:


    Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau

    Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu


    Và, nhiều khi họ có cái nhìn tò mò đối với người lạ rồi bình phẩm, bàn tán - một thói xấu, một cử chỉ đến khó chịu:


    Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói

    Kéo áo rầm rì nói với nhau...


    Ta hiểu người đàn bà Tây dương “níu áo chồng” ròi nói những gì đó với nhau, ẩn sau câu thơ là sự căm ghét của nhà thơ đối với lối sống đó.


    Tiếp đó, Cao Bá Quát miêu tả bằng những lời thơ mộc mạc nhưng nói lên đầy đủ lối sống khác lạ, phè phỡn, no đầy của họ:


    Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay

    Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay...


    Tay cầm cốc sữa mà “hững hờ” không muốn uống, cảnh tượng này đối lập với con người trong bài thơ “Giữa đường gặp người đói” - lời thơ như tiếng kêu xé lòng:


    Một con người thất thểu

    Áo rách nón tả tơi...

    Ngày hai cố chiếc tráp

    Ngày ba nhịn đói dài...


    Cảnh tiếp theo đối lập ngay với chính tâm trạng của nhà thơ:


    Uốn éo đòi chồng năng đỡ dậy

    Biết đâu nỗi khách biệt li này...


    Nghĩa là ở đây thì “bà đầm" uốn éo với chồng, nằm xuống được nhưng khi ngồi dậy phải có chồng nâng! Trong khi đó thì chính nhà thơ đang ở trong cảnh biệt li!


    Thông qua bài thơ ta thấy Cao Bá Quát có cái nhìn sắc sảo, tinh tế, nhạy cảm bắt nguồn từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, nhớ thương người thân, không chịu được những nghịch cảnh, trớ trêu dầu trên quê hương hay những nơi khác lạ!


    Như vậy ở bài thơ này, nhà thơ vừa nhìn thấy cái khác lạ trong đời thường, lại vừa thấm thía với bản thân mình.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Cuộc đời của Cao Bá Quát, một trong những nhà thơ lớn của dòng văn học cổ điển Việt Nam, đánh dấu bằng sự kháng cự và tìm hiểu sâu sắc, đã để lại những dấu ấn không thể nào quên trong lịch sử văn học nước ta. Dựa trên dàn ý phân tích bài thơ “Dương Phụ Hành” của ông, chúng ta có thể thấy rõ sự phản chiếu của cuộc đời và tâm hồn tài danh này.


    Cao Bá Quát là một nhà thơ sắc sảo và nhạy cảm, đặc biệt trong việc nhìn nhận cuộc đời và thế giới xung quanh. Điều này xuất phát từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương và những người thân yêu. Cuộc đời ông đã trải qua nhiều khó khăn, và ông không chịu được những nghịch cảnh và trớ trêu số phận trên quê hương hay nơi khác lạ. Tình cảm này thúc đẩy ông không ngừng sáng tạo và tìm hiểu.


    Triều đình thời Nguyễn có thể nhận thấy giá trị của Cao Bá Quát và tạm tha cho ông sau khi được định tội. Ông được gửi vào một đồn quân để chuộc tội, được gọi là “quân tiền hiệu lực”. Hoặc ông tham gia vào các phái đoàn ngoại giao để lấy công chuộc tội, được gọi là “dương trình hiệu lực”. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng phạm nhân trong các sứ mệnh ngoại giao và phái đoàn. Cao Bá Quát đã trải qua những “đặc ân” đầy thú vị này.


    Khi ông ra nước ngoài, tâm hồn của ông đầy hào hứng và tôn vinh nghệ thuật. Ông tự hỏi về khả năng của mình và so sánh với những tài năng khác. Sự hào hứng và tôn vinh nghệ thuật này cho thấy ông không bao giờ từ bỏ ước mơ và lòng đam mê.


    Nhưng điều quan trọng hơn là cuộc hành trình của Cao Bá Quát đã mở rộng kiến thức và nhận thức của ông về thế giới. Ông nhận ra sự hạn chế của kiến thức truyền thống và nhận thức được giá trị của việc mở cửa tư duy. Ý nghĩ này thể hiện rõ trong bài thơ “Yên Đài Anh Ngữ” của Bùi Ngọc Quỹ, khi ông phê phán chính bản thân mình về việc “đóng cửa” tư duy và tìm hiểu về thế giới.


    Phái đoàn ngoại giao của Cao Bá Quát đã mang ông đi Inđônêxia và Campuchia, nơi ông thấy đời sống và cuộc sống của người Tây phương. Ông thấy sự phát triển của các nước Tây phương và nhận thức được nguy cơ bị xâm lược từ các nước Á Đông. Tình yêu quê hương và lòng yêu nước của ông được kích thích, và ông tin tưởng vào sức mạnh phản kháng của nhân dân trước nạn ngoại xâm.


    Cuộc đời và tâm hồn của Cao Bá Quát là một hành trình kháng cự và tìm hiểu sâu sắc. Ông đã thể hiện sự tôn vinh nghệ thuật và lòng yêu nước không biết mệt mỏi. Cuộc hành trình của ông đã mở rộng kiến thức và nhận thức, và đặc biệt là ý thức về sự hạn chế của kiến thức truyền thống. Sự kháng cự và tìm hiểu sâu sắc trong cuộc đời Cao Bá Quát đã để lại những bài thơ đáng nhớ và là một nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ sau

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Dưới cái ánh sáng lệch lạc của bóng trăng, người phụ nữ Tây phương trong bài thơ “Dương Phụ Hành” của Cao Bá Quát hiện lên với áo trắng phau, tựa vai chồng, tạo nên một hình ảnh tráng lệ và huyền bí. Trong bóng tối, họ duyên dáng như những thiên thần. Nhưng không phải lúc nào họ cũng như vậy.


    Nhà thơ tiếp tục miêu tả cuộc sống của họ, khác biệt hoàn toàn so với người phụ nữ Việt Nam. Họ sử dụng hững hờ cốc sữa một cách không chú tâm, cầm tay thản nhiên. Trong khi đó, gió biển thổi mạnh và đêm sương buốt lạnh. Sự lạnh leo và lặng lẽ trong đêm tạo ra một bầu không khí tương phản với hình ảnh họ đang trải qua.


    Cuối bài thơ, Cao Bá Quát còn nhấn mạnh sự khác biệt về tư duy và cách tiếp cận cuộc sống. Người phụ nữ Tây phương có thói xấu như ngó thuyền Nam thấy đèn le lói và nói với nhau, tạo ra một cảm giác thất vọng và căm ghét trong tâm hồn của nhà thơ.


    Những dòng thơ này không chỉ thể hiện sự nhạy bén của Cao Bá Quát trong việc quan sát và tả mà còn phản ánh một tầm nhìn văn hóa sâu sắc. Ông không chỉ miêu tả cuộc sống mà còn gợi ra suy tư về sự đa dạng và sự khác biệt trong cách tiếp cận cuộc sống và nghệ thuật của người Đông và Tây phương.


    Bài thơ “Dương Phụ Hành” của Cao Bá Quát là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện sự sắc sảo và tinh tế của nhà thơ trong việc diễn đạt tình cảm và tầm nhìn sâu sắc về cuộc sống và văn hóa. Đồng thời, bài thơ cũng là một bức tranh sống động về sự đa dạng và sự khác biệt trong cuộc sống của người Đông và Tây phương.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Bài thơ “Dương Phụ Hành” của Cao Bá Quát là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam thế kỷ XIX. Bài thơ này không chỉ là một tác phẩm thơ ca sáng tạo về vẻ đẹp của cuộc sống hàng ngày mà còn mang trong nó nhiều ý nghĩa sâu sắc về văn hóa và con người.


    Bài thơ được viết vào thế kỷ XIX, một thời kỳ đầy biến động trong lịch sử Việt Nam. Xã hội đang trải qua sự thay đổi và tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Chuyến đi Inđônêxia của nhà thơ đã giúp ông mở rộng tầm nhìn và nhận thức về cuộc sống, văn hóa, và con người.


    Bài thơ bắt đầu bằng việc miêu tả một người phụ nữ Tây phương trong bức tranh thơ mộng. Màu áo trắng của người phụ nữ này được tác giả nhấn mạnh, biểu thị sự thuần khiết và thanh khiết. Việc tựa vai chồng dưới bóng trăng thể hiện sự tương tác tình cảm giữa vợ chồng, trong khi ánh sáng trăng làm nổi bật vẻ đẹp của họ.


    Bài thơ thể hiện sự hòa quyện giữa hai nền văn hóa khác nhau. Cuộc sống gia đình của người Tây phương được miêu tả trong bài thơ với những đặc điểm riêng biệt, như hành động tự nhiên và thân mật của họ. Tuy nhiên, điểm đặc biệt ấy không phải lúc nào cũng được xem là tích cực, và tác giả đã kết thúc bài thơ bằng một câu hỏi nỗi buồn và nhớ nhung.


    Cao Bá Quát thông qua bài thơ này đã tôn vinh vẻ đẹp của cuộc sống hàng ngày. Ông không chỉ chú trọng đến những khía cạnh lớn lao của cuộc sống mà còn lưu ý đến những điều nhỏ nhặt và tự nhiên. Điều này thể hiện sự yêu thương và quan tâm đến cuộc sống và con người.


    Cuối cùng, bài thơ “Dương Phụ Hành” tạo ra sự tương phản giữa vẻ đẹp và tình cảm của cuộc sống gia đình Tây phương và nỗi buồn và sự khát khao trong cuộc sống của tác giả. Ý nghĩa của bài thơ nằm ở việc thể hiện sự đa dạng và phong phú của cuộc sống con người và tầm nhìn văn hóa của Cao Bá Quát.

    Tóm lại, bài thơ “Dương Phụ Hành” không chỉ là một tác phẩm thơ ca sáng tạo về cuộc sống mà còn là một tác phẩm văn hóa và nhân văn sâu sắc, thể hiện tầm nhìn và sự đổi mới của Cao Bá Quát trong nghệ thuật và tư duy.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Văn bản nói về người đàn bà Phương Tây, qua đó gợi cho tác giả suy nghĩ về hạnh phúc và nỗi sầu chia li. Ẩn sâu sau bài thơ là sự giãi bày, chia sẽ này cũng là một trong những phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc ẩn sâu trong tâm hồn của người trí thức phóng khoáng, ngang tàng của người thi sĩ. Dương phụ hành là một tác phẩm có tính nhân văn sâu sắc, phản ánh khát khao sâu thẳm bên trong con người, không phân biệt màu da, tôn giáo ấy là nỗi niềm khát khao về một gia đình hạnh phúc, ấm áp, mong ước có được tình cảm gần gũi giữa vợ chồng. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện một góc nhìn mới, một cái nhìn thật nhân văn, ấy là người phụ nữ có quyền được chở che, được nũng nịu và được thương yêu sau tất cả những gì họ hi sinh cho gia đình. Ngôn ngữ trong thơ chắc nịch, mạnh mẽ, linh hoạt, giàu sắc thái biểu cảm và mang đậm tính cá nhân, bản lĩnh của tác giả.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Đọc tác phẩm “Dương phụ hành” ta thấy được cái nhìn đa sầu, đa cảm và tiến bộ của tác giả Cao Bá Quát. Với người Phương Đông, khi thấy hành động âu yếm, thể hiện cảm xúc tại nơi công cộng thì cho là khiếm nhã, thiếu tôn trọng người khác nhưng trái lại, tác giả thấu hiểu văn hóa phương Tây và hiểu rằng đối với họ đó là chuyện hết sức bình thường. Ông còn miêu tả hết sức kỹ lưỡng từng hành động của người thiếu phụ để làm nổi bật lên sự ngưỡng mộ, ghen tị của mình. Ông cũng ao ước mình được như vậy, sống trong những cảm xúc thật và không cần phải để ý đến cái nhìn của người khác. Nhưng không, số phận không cho phép ông được như vậy, ông nhìn cảnh hai vợ chồng họ âu yếm, hạnh phúc và thương thay cho số phận, hoàn cảnh của chính mình.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy