Top 10 Bài văn phân tích khổ cuối bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng (Ngữ văn 12) hay nhất
Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến ... xem thêm...rất ý nghĩa. Thế nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến. Dưới đây là những bài văn phân tích khổ cuối bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng (Ngữ văn 12) hay nhất mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp.
-
Một bản nhạc hay là một bản nhạc không chỉ đoạn điệp khúc hay đoạn mở đầu hay mà đoạn cuối cũng phải hay, một tác phẩm văn học hay là một tác phẩm không chỉ hay phần mở đầu, phần nội dung và phần kết thúc cũng mang tính gợi mở hay hướng người đọc tưởng tượng đến một viễn cảnh nọ. Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có những đoạn nói về những cuộc hành quân gian khổ, những đêm liên hoan văn nghệ hay bức tượng đài người lính Tây Tiến rất ý nghĩa, rất hay. Thế nhưng lại có rất ít người biết rằng bốn câu thơ cuối bài thơ cũng rất đáng được chú ý. Bởi đây là một đoạn thơ thể hiện được tấm lòng của nhà thơ dành cho Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu trong khổ thơ cuối thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và những người đã ngã xuống:
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình. Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng có một nỗi niềm như người lính Tây Tiến, từ những người xa lạ người lính Việt Nam gắn kết với nhau như anh em:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến tranh, giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn họ không xác định sự chia phôi vừa lớn, vừa thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng đội của Quang Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại.
Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
“Ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại.
Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Nhà thơ Quang Dũng và những người lính Tây Tiến không sinh ra ở mảnh đất biên cương Sầm Nứa nhưng những kỉ niệm họ có ở đó, thời gian hoạt động ở dẫu là gian nan vất vả nhưng khi qua rồi nó in dấu trong lòng họ sâu đậm. Đoạn thơ thể hiện rõ được tâm tình của nhà thơ dành cho mảnh đất và con người nơi biên cương cửa ải.
-
Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ.
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh, người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là "Đèo cả" của Hữu Loan, là "Nhớ" của Hồng Nguyên, "Đồng Chí" của Chính Hữu. "Tây Tiến"của Quang Dũng...
"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ và những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
-
Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Quang Dũng mà người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ. Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài thơ, ông cũng không quên lột tả trần trụi những gian khổ hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng tráng. Khổ cuối bài thơ cũng rất đặc sắc, gói gọn tình cảm của nhà thơ vào những câu chữ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Thật vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo vệ quê hương tổ quốc. Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình. Họ hàng ngày vẫn phải chiến đấu ác liệt với kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm trở với những căn bệnh sốt rét, đói nhưng họ vẫn oai nghiêm hùng dũng vượt lên trên tất cả. Họ là bức tượng cho tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến quyết thắng. Trước khi lên đường tham gia chiến đấu, họ chỉ là những cô cậu sinh viên Hà thành với tuổi đời còn rất trẻ, họ có hoài bão ước mơ. Khi tổ quốc gọi, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả lên đường cầm súng chiến đấu với tinh thần quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như sợi chỉ có thể biến mất bất cứ lúc nào. Họ lên đường chiến đấu, ra đi không hẹn ngày trở về. Họ trao mạng sống của mình cho Tổ quốc - nơi đã sinh ra họ.
Ở nơi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó khăn, nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc đèo hiểm trở, họ bỏ lại những bản làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt có bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không có hồi kết. Vì vậy một tia hi vọng trở về là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong vô vọng. Trong bối cảnh lịch sử là cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự đơn sơ về vũ khí của ta, sự nghèo nàn về vật chất khác nào lấy trứng chọi với đá. Vì vậy sự hi sinh là không thể tránh khỏi. Họ phải vì nước quên thân vì dân phục vụ, hi sinh tính mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu thế hệ trẻ cầm súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Họ cống hiến, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca hay phàn nàn mà đó là bổn phận, là trách nhiệm nghĩa vụ của một người công dân yêu nước nồng nàn, có ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ đã lột tả ý chí chiến đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên phẩm chất yêu nước anh hùng của họ.Với nghệ thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với giọng điệu chậm rãi nhẹ nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm lặng mà cao cả của đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ để ông tiếp tục chắp bút tô vẽ nên:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Có thể thấy “mùa xuân” có nhiều nghĩa. Đó là mùa đẹp nhất trong năm. Đây cũng là thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân còn là mùa của đất nước. Nó cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của người chiến sĩ đã một đi không trở lại. Họ mang theo sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình lên đường hành quân chiến đấu. Tuy nhiên, họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội mà vẫn còn lượn lờ sang nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết tâm thực hiện lí tưởng đến cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của họ vẫn chiến đấu tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng họ mãi mãi. Đó cũng mang tính sử thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với mục tiêu chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Họ vẫn rong ruổi chiến đấu trên suốt cuộc hành trình khó khăn ấy của mình. Phải chăng tình yêu quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm nhuần vào máu thịt đến nhường nào mới có thể bất diệt như vậy?
Tóm lại, với giọng điệu trữ tình đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như những dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến sĩ gan dạ Tây Tiến. Đó là hình ảnh những người chiến sĩ dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ trọn lời thề với quê hương tổ quốc. Họ là những con người đau thương nhưng không bi lụy, tràn đầy niềm tin và tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống của tuổi trẻ. Tây Tiến xứng đáng là bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt để lại cho thế hệ sau.
-
Tây Tiến là một trong những bài thơ được xem là hay nhất của Quang Dũng. Bài thơ được viết năm 1984, ở làng Phù Lưu Chanh khi ông tạm xa đơn vị một thời gian. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập mùa xuân năm 1947, chiến sĩ của đơn vị phần đông là người Hà Nội. Nội dung chủ yếu của bài thơ khắc họa người lính hào hoa và vẻ đẹp bi tráng. Đoạn cuối bài thơ Tây Tiến thể hiện cảm nghĩ của tác giả về đoàn quân và tình cảm đồng đội trong những ngày tháng chiến đấu đầy kỉ niệm.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Tinh thần của đoàn quân Tây Tiến thể hiện trong khổ thơ này đó là "Người đi không hẹn ước” ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì nước, xả thân vì nước. Bởi lẽ, đường lên thăm thẳm một chia phôi: Mỗi bước chân hành quân đi lên, dốc đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là những hi sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất yêu nước anh hùng của họ. Do tinh thần bi tráng ấy mà mùa xuân thành lập đoàn quân trở thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh hùng bỏ mình vì nước. Những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm Nứa, tan vào với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần, khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn. Nghệ thuật dùng từ rất dứt khoát “không hẹn ước, chia phôi, hồn về” kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng mềm mại nên đoạn thơ nói về sự hi sinh lại thấm đượm chất lãng mạn của các chiến sĩ Tây Tiến.
Đoạn thơ cũng như bài thơ nói về cái chết nhưng không gieo vào lòng người đọc sự bi ai mà gợi tinh thần bi tráng. Đoạn thơ còn bộc lộ tâm tư của nhà thơ: "Tây Tiến người đi không hẹn ước". Người đi ở đây là tác giả. Tác giả đã ra đi không hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng xa cách, hi vọng ngày gặp lại càng mong manh. Trong khoảng cách không gian dịu vợi, nỗi nhớ đồng đội của nhà thơ càng tỏa ra mênh mông: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi". Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu với đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ ở nơi này mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nứa trên kia, vẫn gắn bó với đoàn quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ. Giọng điệu trữ tình góp phần làm nổi rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ. Đoạn thơ có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng của tác giả nên nội dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ.
Đoạn thơ cuối này sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh thần hi sinh vì lí tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân dung của một tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng được khắc họa bởi bút pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của Quang Dũng. Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
-
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua khắc sâu vào tiềm thức bao thế hệ dân tộc Việt Nam ta tinh thần yêu nước, sự chiến đấu và hy sinh cao cả, ý chí kiên cường, bất khuất vượt lên muôn vàn khó khăn, khắc nghiệt và thiếu thốn. Cuộc kháng chiến làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính. Trong đó, Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Cũng như những thanh niên Hà Nội lúc bấy giờ, Quang Dũng, chàng sinh viên hào hoa, thanh lịch, lãng mạn rời trang sách nhà trường lên đường cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Để rồi khi chuyển đơn vị, nhà thơ bồi hồi nhớ lại quãng thời gian khó khăn nhưng đầy ngoan cường, bất khuất ấy và viết lên bài thơ “Tây Tiến”. Và đặc biệt ở khổ là cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ. Đó là nỗi nhớ cùng lời ước hẹn gắn bó sâu nặng với Tây Tiến và miền Tây Bắc:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Ở hai câu thơ đầu đoạn thơ, cụm từ “người đi không hẹn ước” khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Người lính gác lại tất cả chuyện riêng tư, một lòng chiến đấu cho nhiệm vụ cứu nước, cứu dân tộc. Cái tinh thần “một đi không trở lại” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại. “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến. Hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nên hành trình chiến đấu là nối tiếp hy sinh, càng khó hi vọng trở về. Giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp, tình thế cam go, căng thẳng thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, những bộ đội cụ Hồ ra trận chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cách dùng từ “không hẹn ước”, “một chia phôi” hồn hậu cùng giọng thơ êm ái, nhẹ nhàng giúp cho câu thơ về đức hi sinh không gieo vào lòng người đọc sự bi quan mà là niềm lạc quan, hi vọng, mang đậm chất lãng mạn.
Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành điểm hẹn cho mọi trái tim nhung nhớ luôn muốn trở về. Mùa xuân ấy, khi “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân hay cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình. Trở về vùng núi rừng Tây Bắc, về nơi có bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.
Đoạn thơ khép lại nhưng những âm hưởng xúc động ấy vẫn vang vọng trong tâm hồn ta. Qua đoạn thơ, ta cảm nhận được nỗi nhớ tha thiết, sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu cùng đoàn quân Tây Tiến nơi núi rừng hùng vĩ, thơ mộng miền Tây- một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.
-
Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống Pháp. Nhà thơ Quang Dũng từng hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến nên ông có những trải nghiệm sâu sắc về những tháng ngày chiến đấu gian khổ nhưng đầy ắp kỉ niệm của người lính. Năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ chuẩn bị nhận công tác ở đơn vị mới, ông đã viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những tháng ngày đã qua đồng thời cũng thể hiện ý chí quyết tâm, và tinh thần hi sinh cao đẹp của của người lính, tinh thần ấy được thể hiện rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, lí tưởng chung của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
“Người đi không hẹn ước” là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm. Những người lính ra đi vì lí tưởng cứu nước cao đẹp, họ sẵn sàng hi sinh cả tuổi xuân, cả mạng sống của bản thân cho lí tưởng ấy nên ra đi không hẹn ước ngày trở về. Những người lính hiểu được sự khốc liệt của chiến trường, sự cam go đầy khó khăn, mất mát của cuộc kháng chiến trường kì. Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả thân ấy thật đẹp đẽ, thật thiêng liêng biết bao, vì dân tộc, tổ quốc họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi” bước chân của người lính Tây Tiến bước qua bao núi, bao đèo và cuộc hành quân càng tiến lên phía trước thì những bản làng mờ sương cũng mờ ảo và lùi dần về phía sau. Cuộc chiến đấu căng thẳng, khốc liệt lại thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình chiến đấu khó khăn, tử thần rình rập làm cho hi vọng trở về càng mong manh.
Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn về tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của binh đoàn Tây Tiến:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Mang theo mình tình yêu nước, lí tưởng xả thân cao đẹp, những người lính Tây Tiến muốn sống hết mình cho cuộc chiến đấu, cả khi hi sinh họ cũng mong muốn tan vào với hồn thiêng sông núi để lí tưởng, tình yêu ấy sẽ bất tử với thời gian. “Mùa xuân ấy” là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành lập, cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình. “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn mang nguyện ước thật đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông.
Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng hàng loạt từ mang sắc thái trang trọng “không hẹn ước, chia phôi, hồn cùng giọng thơ nhẹ nhàng, mềm mại nên dù nói đến sự hi sinh, mất mát nhưng khổ thơ không gieo vào lòng người đọc những mất mát, bi lụy mà thấm đẫm chất lãng mạn, gợi ra niềm tin và tinh thần lạc quan.
Khổ thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của những người lính Tây Tiến đồng thời hoàn thiện cho bức chân dung đẹp đẽ, đáng trân trọng của những người lính trong kháng chiến.
-
Có ai đã từng nói “Thơ là rượu của thế gian”. Đúng thật như vậy thơ ca luôn làm say lòng người cùng với thơ người đọc được đắm chìm trong muôn vàn những cung bậc tình cảm, cảm xúc. Đến với bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng ta thực sự ấn tượng trước tiếng lòng của ông. Đọc khổ 4 của bài thơ ta cảm nhận được khúc vĩ thanh nhớ nhung về miền Tây và Tây Tiến.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào năm 1948 trong những năm tháng không thể nào quên được của lịch sử thời kháng chiến chống Pháp. Hoàn cảnh sáng tác ấy cho thấy rõ hơn trong nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị và mảnh đất miền Tây đầy kỉ niệm.
Nỗi nhớ trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài thơ. Hoàn cảnh sáng tác cũng đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến, hiểu được nguyên nhân của bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, những yếu tố làm nên chất bi tráng rất đặc sắc của bài thơ.
Tác giả đã nhắc đến hình ảnh người đi trong những nét nghĩa mơ hồ, có thể hiểu nhà thơ nhắc đến những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai Hà Nội năm xưa từ biệt quê hương , ra đi Tây Tiến không “ hẹn ước” ngày trở về, lên với miền Tây thăm thẳm xa xăm, mờ mờ, cách hiểu này gợi niềm mến thương cảm phục với những người anh hùng, nỗi xót xa với những chiến sĩ, mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về,..
Cũng có thể hiểu nhà thơ nhắc tới thời điểm cuối năm 1948, khi ông đang ở Phù Lưu Chanh, bâng khuâng nhớ về việc mình chia xa trung đoàn tây Tiến không hẹn ước ngày về, đã từ biệt miền Tây không biết bao giờ gặp lại, bởi “ đường lên thăm thăm một chia phôi”.
Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong lòng nhà thơ những hoài niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời nhắn nhủ thiết tha. Có thể hiện nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thuỷ chung, son sắt của tất cả những “ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” trong lòng họ, thời gian gắn bó với trung đoàn, với miền Tây từ “ mùa xuân ấy” là khoảng thời gian quý giá nhất trong cuộc đời, khoảng thời gian vời vợi nhớ thương.
Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn những người lính sẽ mãi đi về với miền Tây, với những Sầm Nứa, Pha Luông, Mường Hịch,..những vùng đất xa xôi đựng đầy kỉ niệm với đồng đội , với trung đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng bởi
"Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn”( Chế Lan Viên)
Cũng có thể hiểu nhà thơ đang xót xa nhắc đến những đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại những nấm mồ cô đơn miền viễn xứ. Họ đã lên Tây Tiến mùa xuân ấy, đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh dũng cảm, linh hồn và thân xác họ đã vĩnh viễn ở lại với miền Tây, để lại nỗi nhớ thương da diết, nỗi chua xót ngậm ngùi cho những người còn sống.
Đoạn thơ cho thấy cái tâm đẹp và tài hoa của Quang Dũng. Nếu như Chính Hữu qua bài thơ “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nông dân mặc áo lính thì Quang Dũng với bài thơ “Tây Tiến đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng cảm, can trường, trng gian khổ chiến đấu hi sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hào hùng, hào hoa là hình ảnh đoàn binh Tây Tiến.
Tây Tiến đã thực sự trở thành một nét vẽ tài hoa và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc. Quả đúng là như một người đã từng nói “ Thơ ca nếu không có người tôi đã mồ côi”. Những vần thơ của Quang Dũng đã cho người đọc thấu cảm đến tận cùng của nỗi nhớ và trở thành một nỗi niềm chung.
-
"Tây Tiến" của Quang Dũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca thời kì chống Pháp. Bài thơ đã diễn tả thành công nỗi nhớ tác giả dành cho đơn vị cũ, đồng thời tái hiện những kí ức về tháng ngày hành quân gian khó. Khổ cuối tác phẩm chính là lời hẹn ước đầy xúc động của nhà thơ với Tây Tiến và núi rừng Tây Bắc:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm nứa chẳng về xuôi"
Đi qua ba khổ thơ trước, độc giả đã được chiêm ngưỡng vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, thấy bức tranh ấm áp tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ và vẻ đẹp của người chiến sĩ với những lí tưởng cao cả. Nhưng tất cả đều đã ở lại quá khứ, trở thành phần kí ức khó phai nhòa trong lòng thi sĩ. Vì vậy, ông đã dồn tình cảm, cảm xúc của mình vào khổ thơ cuối, thốt ra lời hẹn ước về ngày hội ngộ.
Ở đây, lí tưởng cao đẹp của người lính một lần nữa được nhắc lại:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi"
Trong khổ thơ thứ ba, người đọc đã được thấy tinh thần bất khuất, ngạo nghễ của các chiến sĩ Tây Tiến: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đồng thời, thấu hiểu hơn những mất mát, đau thương nơi chiến trường: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ". Sang đến đoạn cuối, điều này lại được gợi ra với cụm từ "đi không hẹn ước". Sự ra đi của các anh là hoàn toàn tự nguyện. Vốn chỉ là những thanh niên Hà Thành trẻ trung, nhiều hoài bão, nay họ đã phải từ bỏ cuộc sống cũ, khoác lên mình chiếc áo lính, cầm súng bảo vệ cho an nguy nước nhà. Chính họ cũng hiểu được sự nguy hiểm, khốc liệt nơi chiến trường, xác định một khi đã lên đường thì khó mà có ngày trở về. Vậy nhưng, với tinh thần xả thân cùng lí tưởng cao cả, đẹp đẽ, họ vẫn sẵn sàng dâng hiến tuổi trẻ, thậm chí cả tính mạng cho dân tộc mà chẳng có chút tính toán. Con đường mà những thanh niên ấy đi "thăm thẳm một chia phôi". Từ "thăm thẳm" như gợi ra tương lai mờ mịt, không thấy được đích đến. Đó cũng là con đường chia li, một đi không trở lại. Ấy vậy nhưng bao khó khăn kia chẳng cản được bước chân người lính. Hình ảnh của họ hiện lên cao cả và lớn lao vô cùng, đại diện cho tinh thần bất khuất, kiên cường, sẵn sàng xả thân của cả một thế hệ trẻ thời chiến.
Tinh thần bi tráng cùng tâm thế sẵn sàng cống hiến, hi sinh ấy còn được khẳng định vô cùng chắc chắn với một lời hứa hẹn:
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Từ "ấy" lại một lần nữa được sử dụng. Nó gợi lên kí ức về mùa xuân năm 1947 - thời điểm quân đoàn Tây Tiến được thành lập. Nhưng cũng có thể, đây là từ dùng để chỉ mùa xuân độc lập, hòa bình của đất nước. Với chữ "ai" đặt ở đầu như một câu hỏi bâng quơ, không xác định, Quang Dũng đã thay mặt cho tất cả những người lính, bày tỏ nguyện ước gắn bó của mình với rừng núi Tây Bắc. Chốn biên cương đầy hiểm nguy kia tuy không phải nơi họ sinh ra, nhưng lại là nơi họ nguyện gắn bó suốt đời. Tất cả là bởi ở đó có những người đồng đội, đồng chí đã ngã xuống, có bao kỉ niệm khắc cốt ghi tâm, khó thể nào phai nhòa.
Bằng ngôn từ giản dị nhưng đầy sức gợi kết hợp với giọng điệu trữ tình da diết, Quang Dũng đã đem đến hình ảnh chân thực nhất về người lính. Ở đây, nhà thơ đã tận dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh sự hi sinh cao cả của đoàn quân Tây Tiến. Đồng thời, mang lại cái nhìn sâu sắc hơn cho độc giả về tình đồng đội, đồng chí gắn bó, thủy chung giữa những chàng trai trẻ nơi chiến trường.
Tác phẩm "Tây Tiến" nói chung và đoạn thơ cuối nói riêng đã thành công khắc họa chân dung những người lính trẻ trong thời kì kháng chiến chống Pháp gian khổ. Họ quả cảm, gan dạ, mang trong mình lí tưởng cao đẹp cùng lời hẹn thề trọn vẹn dành cho Tổ quốc. Qua đây, tác giả cũng khiến người đọc thêm thấu hiểu, biết ơn và cảm phục những sự hi sinh của thế hệ đi trước. Từ đó, trân trọng hơn nền hòa bình, độc lập ngày hôm nay.
-
Quang Dũng là người làng Phượng Trì ở Hà Tây nhưng ông chủ yếu sống ở Hà Nội. Ông là nghệ sĩ đa tài vừa làm thơ, vừa viết nhạ, họa nhưng thành công hơn cả là lĩnh vực thơ ca. Thơ ông thường tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng. Trong những tác phẩm mà ông viết, Tây Tiến là một trong những tác phẩm đặc sắc để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Đặc biệt khổ cuối bài thơ là lời hẹn và trở về với Tây tiến của tác giả đầy xúc động.
Đơn vị tây tiến được thành lập vào năm 1947 mục đích phối hợp với Lào để bảo vệ biên cương Lào – Việt, đích tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cuộc kháng chiến những vùng núi khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động tây tiến khá rộng, tất cả đều là những nơi hoang vu, hẻo lánh, hiểm trở, núi cao, sông rộng, rừng nhiều thú dữ. Bộ đội đoàn quân Tây Tiến vô cùng vất vả, khó khăn với căn bệnh sốt rét, thiếu lương thực, gầy xanh lét, họ chết vì bệnh tật còn nhiều hơn vì súng đạn, thậm chí khi chết cũng không có manh chiếu để đắp. Tuy nhiên, đoàn quân tây tiến rất lạc quan, yêu đời, họ phần lớn là thanh niên hà thành vẫn giữ được cốt cách hào hoa, lãng mạng hào hùng.
Tác giả vốn là đội trưởng của đoàn quân tây tiến, sau khi tạm biệt đoàn quân và đến chiến trường khác theo sự phân công của cấp trên, ông đã rất nhớ đoàn quân tây tiến và sáng tác nên bài thơ này. Trong khổ cuối bài thơ là lý tưởng của đoàn quân tây tiến và ngày hẹn gặp lại.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Người đi không hẹn ước chính là tinh thần tự nguyện và quả cảm của người lính tây tiến. Đã xác định ra chiến trường là không hẹn ngày về. Đã từng có một thế hệ như vậy, một thế hệ với lý tưởng cứu nước, tinh thần xả thân thật đẹp đẽ , thật thiêng liêng biết bao. Vì dân tộc, họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình, họ sẵn sàng đi mà chẳng tiếc đời xanh.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…
Sự ra đi quả quyết của họ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ. Ở độ tuổi họ ra chiến trường có lẽ cùng chạc tuổi 18, đôi mươi, tuổi trẻ nhiệt huyết còn bao nhiêu điều tươi đẹp phía trước. Vậy mà họ vẫn đi dẫu biết “đường lên thăm thẳm một chia phôi”, dẫu biết phía trước là khó khăn, đến gần hơn cánh cửa tử thần, nhưng vẫn quyết tâm đi.
Hai câu thơ chính là hình ảnh bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Đường lên thăm thẳm chính là những khó khăn chồng chất khó khăn, đó là điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình gian nan vất vả hơn, đó là tử thần luôn rập rình khiến cho hi vọng trở về càng mong manh.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Hai câu thơ cuối càng khắc sâu hơn tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Mùa xuân 1947, binh đoàn tây tiến được thành lập và cũng có thể là mùa xuân sáng lạn nhất của đất nước khi hòa bình. Đoàn quân tây tiến đã đi trong niềm hân hoan và hi vọng về lí tưởng của mình. Và dẫu cho hi sinh nhưng vẫn mang những nguyện vọng thật đẹp hòa vào núi sông để mãi mãi bảo vệ tổ quốc non sông.
Tinh thần của họ khiến ta liên tưởng tới những dòng thơ của nhà thơ Trần Bá Căn:
Có một thời để nhớ mãi trong tôi
Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng
Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng
Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên.
Đối với họ có một thời như thế đó, bất chấp bom đạn, hi sinh sẵn sàng ra chiến trường vì lý tưởng của mình. Và mục đích cuối cùng là đánh đuổi kẻ thù mang lại hòa bình cho dân tộc, gần hơn đó là mang lại sự bình yên hạnh phúc cho chính những người thân của mình.
Có một thời như thế và có những người lính đã như thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng cũng mang lí tưởng như vậy, dẫu hi sinh vẫn dõi theo nhau, quyết không về xuôi, hòa mình vào núi rừng để luôn ở bên đồng đội.
Quang dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của nhà thơ tài hoa, đoàn quần tây tiến được khắc lenen là tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí đồng đội thắm thiết của Quãng Dũng.
-
Nhắc tới thơ văn trong kháng chiến, chúng ta không thể không nhắc tới những nhà văn nhà thơ như Tố Hữu, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thi, … và có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc tới nhà thơ Quang Dũng. Ông là nhà thơ tiêu biểu trong giai đoạn văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm đặc sắc và gây ấn tượng nhất của ông là bài thơ Tây Tiến viết năm 1948. Bài thơ đã làm nổi bật lên một hồn thơ lãng mạn, sâu lắng, thấm đượm nghĩa tình, tinh thần dân tộc của Quang Dũng, đặc biệt đoạn thơ cuối của bài thơ đã gói gọn cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ, đó là nỗi nhớ cùng lời thề gắn bó với Tây Tiền và miền Tây Bắc Bộ.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên Hà thành, được thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội trưởng. Đoàn quân có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Cuối năm 1948 Quang Dũng ông rời khỏi binh đoàn Tây Tiến, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ viết nên bài thơ Nhớ Tây Tiến. Sau này bài thơ được đổi tên thành Tây Tiến. Đoạn thơ cuối đã thể hiện tấm lòng tha thiết của nhà thơ dành cho Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện quyết tâm, lí tưởng chiến đấu cao đẹp và phẩm chất anh hùng của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến. “Người đi không hẹn ước”, người lính Tây Tiến ra đi chiến đấu không một lời hới ngày trở về. Đó là tinh thần chiến đấu tự nguyện, quả cảm, quên mình vì nước “Ra chiến trường chẳng tiếc đời xanh”. Lí tưởng cứu nước, tinh thần xả thân ấy thật đẹp đẽ, thiêng liêng biết bao. “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”, ý thơ làm ta hình dung mỗi bước hành quân lên cao, đèo dốc và những bản làng mù sương lùi dần ra phía sau. Hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, thiếu thốn, gian khổ nên hành trình chiến đấu là nối tiếp hy sinh, càng khó hi vọng trở về. Giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp, tình thế cam go, căng thẳng thêm điều kiện sinh hoạt khó khăn, những bộ đội cụ Hồ ra trận chiến đấu với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cách dùng từ “không hẹn ước”, “một chia phôi” hồn hậu cùng giọng thơ êm ái, nhẹ nhàng giúp cho câu thơ về đức hi sinh không gieo vào lòng người đọc sự bi quan mà là niềm lạc quan, hi vọng, mang đậm chất lãng mạn.
Đến hai câu thơ cuối là lời thề sắt son của người lính, tâm hồn và tình cảm của họ vẫn luôn gắn bó với con người, thiên nhiên vùng Tây Bắc. “Mùa xuân ấy” được nói đến ở đât có thể là mùa xuân năm 1947 khi binh đoàn Tây Tiến được thành lập, thời điểm lịch sử khóa khăn gian khổ mà lãng mạn hào hùng, cũng có thể là mùa xuân sáng lạn của đất nước khi hòa bình. Nhớ mùa xuân là nhớ đồng đội, nhớ những kỉ niệm cùng đồng đội chia ngọt sẻ bùi, vượt qua khó khăn, cùng đấu tránh bảo vệ Tổ quốc, nhớ thiên nhiên núi rừng và con người Tây Bắc gần gũi, thân thương. “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” lời thề gắn bó máu thịt với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây. Nhà thơ dành trọn tất cả trái tim cho Tây Tiến, cho Sầm Nứa. “Chẳng” cách nói dứt khoát, dường như với Quang Dũng, ai đã từng có một thời Tây Tiến thì dù có đi đâu, đến chân trời nào, hồn vẫn gửi về nơi đó, vẫn quấn quyện với từng ngọn núi, từng bản làng thấp thoáng trong màn mưa xa khơi. Những người lính dẫu hi sinh nhưng vẫn mang nguyện ước thật đẹp, hòa vào khí thiêng sông núi để mãi bảo vệ cho tổ quốc, non sông. Nhịp thơ chậm rãi, giọng điệu trữ tình nhưng vẫn toát lên vẻ hào hùng.
Rõ ràng, đoạn thơ cuối đã diễn tả cách thật cô đọng bao tình cảm nhớ thương mà các chiến sĩ Tây Tiến dành cho mảnh đất mình từng đi qua, từng sống, từng chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp cùng tình đồng đội đồng chí của người lính Tây Tiến và cũng là của Quang Dũng. Ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem về cho đất nước nền độc lập như ngày hôm nay. Bút pháp lãng mạn mang đậm phong cách thơ của Quang Dũng, mang lại nhiều giá trị cho tác phẩm giúp Tây Tiến xứng đáng là một trong những bài thơ trữ tình hay nhất thời kì kháng chiến.