Top 12 Bộ tộc bí ẩn nhất thế giới
Trên thế giới còn rất nhiều bí ẩn, kỳ lạ mà chúng ta chưa hề khám phá hết. Từ nền văn hóa cổ đại, hầu hết con người đã bước sang thời kỳ công nghệ hiện đại ... xem thêm...nhưng đâu đó trong những cánh rừng Amazon hay nhiều vùng đất khác trên thế giới vẫn có sự xuất hiện của những bộ tộc bí ẩn. Họ vẫn sống dựa vào rừng núi, sống chủ yếu bằng săn bắn, hái lượm và có những tập tục nguyên thủy hiện hữu trong nền văn hóa truyền thống của họ.
-
Người Mashco-Piro thuộc họ Hamara, sinh sống ở Nam Mỹ, là một trong những bộ tộc sống cách biệt với thế giới bên ngoài. Họ sử dụng ngôn ngữ Piro, sống chủ yếu bằng hình thức săn bắn và hái lượm. Theo ước tính mới đây của tổ chức IWGIA, hiện bộ tộc này còn khoảng 100 - 250 người sinh sống. Chiến tranh và quá trình đô thị hóa chính là nguyên nhân làm giảm số lượng thành viên của bộ tộc này. Từ lâu bộ tộc Mashco-Piro được đánh giá là những chiến binh ngạo mạn nhất khu vực Amazon. Họ sẵn sàng bắn cung tên vào những đoàn khách ngồi trên tàu du lịch và những kẻ xâm chiếm bất hợp pháp để bảo vệ vùng đất thiêng liêng mà tổ tiên họ để lại. Họ không muốn tiếp xúc với bên ngoài, không muốn bị chinh phục và là một trong các bộ tộc hiếu chiến nhất. Họ rất hung hãn nếu vô tình gặp người ngoài. Họ sẵn sàng tấn công hoặc để lại dấu hiệu dằn mặt ai đến gần họ.
Bộ tộc Mashco-Piro chọn lối sống biệt lập vì cho rằng đây là cách sống sót duy nhất. Năm 1894, hầu hết bộ tộc đã bị đội quân của trùm cao su Carlos Fermin Fitzcarrald tàn sát trên sông Manu. Trong cơn sốt khai thác cao su từ năm 1879-1912, nhiều thổ dân đã bị bắt làm nô lệ khiến họ phải chạy sâu hơn vào rừng. Nhà nghiên cứu Glenn Shepard lưu ý: "Lịch sử tiếp xúc của bộ tộc Mashco-Piro in đậm dấu ấn sợ hãi đối với bạo lực và bóc lột". Đến nay rất khó biết bộ tộc Mashco-Piro có bao nhiêu người. Con số ước tính từ 600-800 thổ dân. Họ sống du mục, săn bắt, hái lượm, di chuyển theo từng nhóm gia đình. Mùa mưa nước dâng cao, họ rút sâu vào rừng. Đến mùa khô, họ ra bãi bồi dọc sông dựng lều đánh cá và thu gom trứng rùa.
-
Ayoreo là nhóm thổ dân bản địa sống ở Gran Chaco, là bộ tộc duy nhất còn sót lại ở Nam Mỹ không sống ở Amazon. Họ nói tiếng Ayoreo, ngôn ngữ được xếp vào nhóm Zamucoan. Hình thức sinh hoạt chủ yếu là săn bắt và hái lượm kết hợp với trồng trọt theo mùa. Ayoreo chia làm 7 bang, mỗi bang có một cái tên rất đặc biệt. Dân số của họ khá đông lên đến mấy nghìn người. Người Ayoreo được biết đến với nhiều cái tên như Ayoré, Ayoreode, Guarañoca, Koroino, Moro, Morotoco, Poturero, Pyeta Yovai, Samococio, Sirákua, Takrat, Yanaigua và Zapocó. Trong ngôn ngữ Ayoreo, Ayoreo có nghĩa là “người thật” và Ayoreode có nghĩa là “con người”.
Người Ayoreo lần đầu tiên được tiếp xúc khi Tu sĩ dòng Tên bắt đầu sứ mệnh San Ignacio Zamuco vào những năm 1720 để cải đạo dân chúng theo đạo Công giáo. Sứ mệnh đã bị bỏ rơi vào những năm 1740 và Ayoreo bị bỏ lại một mình cho đến những năm 1900. Chiến tranh Chaco (1932-1935) giữa Bolivia và Paraguay đã đưa 100.000 quân đến lãnh thổ của họ, cũng như các dịch bệnh mới. Cả hai quốc gia đều coi Ayoreo là một vấn đề và từ những năm 1940 cho đến những năm 1970, binh lính Paraguay có thể được giải phóng khỏi nghĩa vụ vì đã giết một Ayoreo. Những đứa trẻ Ayoreo đã bị đánh cắp trong thời gian này, bao gồm cả một đứa trẻ 12 tuổi tên Iquebi, người đã bị đem đi trưng bày. Ayoreo có mối liên hệ sâu sắc với Eami, lãnh thổ chung của họ. Họ là những người du mục săn bắn hái lượm, nhưng vào mùa mưa, họ trồng một lượng nhỏ cây trồng, bao gồm ngô, đậu và bí. Họ săn thú ăn kiến, lợn, rùa và khỉ trong rừng và lấy mật ong. -
Bộ tộc Yanomami là thổ dân da đỏ bản địa ở vùng rừng rậm Amazon nằm ở biên giới giữa Venezuela và Brasil với dân số chừng 20.000 người. Họ sống trong hàng trăm ngôi làng và tạo thành nhóm bộ lạc lớn nhất trong rừng Amazon. Bộ tộc có tập tục kỳ lạ. Với niềm tin có sự tồn tại của thế giới thần linh, bộ tộc này có tập tục ăn uống tro người chết. Tro cốt người chết được hòa lẫn với món súp chuối và họ tin rằng linh hồn người chết sẽ luôn ở bên cạnh họ. Họ dùng tro cốt người chết chế biến thành thức ăn hoặc làm gia vị cho nhiều món, với món chính là súp chuối. Bạo lực và bệnh dịch đã khiến dân số bộ tộc này giảm mạnh 20% trong vòng 7 năm. Kể từ khi được phát hiện đến nay, bộ tộc ở rừng Amazon này vẫn sống hoang dã như tổ tiên của họ và không muốn liên hệ với thế giới bên ngoài, không muốn thay đổi thói quen từ thuở xa xưa.
Bộ tộc này có tập tục tụ họp dưới mái nhà chung shabono. Trung bình, một shabono có chu vi chừng 90m, hình tròn, giữa là khoảng sân rộng, làm từ các nguyên liệu tự nhiên như lá và dây leo của rừng nhiệt đới. Cứ mỗi 4-6 năm/lần, người Yanomami lại dỡ bỏ shabono cũ, dựng cái mới. Trong tộc Yanomami, bé trai vừa lên 8 tuổi đã được coi là đàn ông, bé gái sau kỳ kinh đầu tiên được xem như phụ nữ trưởng thành. Họ phân công công việc rất rõ ràng, thích xăm mình, am tường kiến thức tự nhiên. Yanomami cũng là tộc xuất sắc trong việc chế tạo và sử dụng chất độc từ thực vật. Đàn ông trong tộc rất hiếu chiến, sẵn sàng "động thủ" trước bất cứ mối đe dọa nào, bất chấp chuyện phải đổ máu.
-
Pintupi Nine là một nhóm gồm chín người Pintupi đã sống cuộc sống thợ săn truyền thống tại sa mạc Gibson của Úc. Họ được coi là ''bộ tộc bị mất'' và được báo chí ca ngợi là những người du mục cuối cùng. Gia đình này gồm 2 người mẹ và 7 người con, người cha đã mất trước khi người ta tìm thấy bộ tộc này. Họ chủ yếu ăn thực vật, thỏ và kỳ đà. Chế độ ăn uống của họ chủ yếu là chăn cừu và thỏ cũng như thức ăn cây bụi thực vật bản địa. Các chàng trai và cô gái đều ở độ tuổi thanh thiếu niên từ sớm đến cuối tuổi, mặc dù tuổi chính xác của họ không được biết đến; các bà mẹ ở độ tuổi cuối 30. Người cha - chồng của hai người vợ - đã chết. Sau đó, cả nhóm đi về phía nam đến nơi họ nghĩ có thể có người thân của họ, vì họ đã nhìn thấy 'những đám khói' ở hướng đó. Họ chạm trán với một người đàn ông đến từ Kiwirrkura nhưng do hiểu lầm nên họ đã bỏ chạy về phía bắc trong khi anh ta quay trở lại cộng đồng và báo cho những người khác sau đó quay lại cùng anh ta để tìm nhóm. Các thành viên trong cộng đồng nhanh chóng nhận ra rằng nhóm là những người thân đã bị bỏ lại trên sa mạc hai mươi năm trước đó, khi nhiều người đã đi vào các nhiệm vụ gần Alice Springs.
Các thành viên cộng đồng đã di chuyển bằng xe đến nơi nhóm được nhìn thấy lần cuối và sau đó theo dõi họ một thời gian trước khi tìm thấy họ. Sau khi liên lạc và thiết lập mối quan hệ của họ, chín Pintupi đã được mời đến và sống tại Kiwirrkura, nơi hầu hết họ vẫn cư trú. Những người theo dõi Pintupi nói với họ rằng có rất nhiều thức ăn và nước chảy ra từ đường ống; Yalti đã nói rằng khái niệm này đã làm họ kinh ngạc. Sau lần đầu gặp gỡ những cư dân hiện đại tại bang Western Australia vào năm 1984, tộc người Pintupi Nine biết đến một thế giới đầy đủ tiện nghi và lương thực dồi dào. Phần lớn thổ dân quyết định chuyển đến vùng thành thị, trong khi một số khác giữ nguyên nếp sống của mình.
-
Korowai là dân tộc bản địa cư trú trong những cánh rừng ở cực đông Indonesia. Theo điều tra, bộ tộc này hiện nay còn khoảng 3.000 người đang sinh sống rải rác trong khắp các cánh rừng ở Papua. Người Korowai có tập tục săn đầu người và được coi là bộ tộc ăn thịt người hoang dã và ẩn dật. Họ chuyên sống trên ngọn cây với những tập tục người nguyên thủy. Người Korowai được phát hiện vào những năm 1970. Họ sống theo tổ chức xã hội theo hình thức bộ tộc và đây là một trong những bộ tộc sống hoang dã và nguyên thủy nhất thế giới hay còn biết đến là một bộ tộc người cây độc đáo sống biệt lập với thế giới trong hàng thế kỷ đã qua. Theo cuộc điều tra dân số Indonesia thì bộ lạc này có gần 3.000 thành viên sinh sống rải rác trong khắp các cánh rừng ở Papua.
Người Korowai từng có tục săn đầu người và ăn thịt người và được coi là Bộ tộc ăn thịt người hoang dã và ẩn dật. Bộ tộc Korowai sống giữa rừng già, tách biệt hoàn toàn với thế giới văn minh, họ trú ẩn trong rừng sâu cách bờ biển Arafura khoảng 150 km và sống hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài, cuộc sống của họ hoàn toàn như người nguyên thủy. Người Korowai có lối sống du cư, du mục và sống nhờ săn bắn thú rừng và hái lượm. Đàn ông săn thú để kiếm ăn, còn phụ nữ thì hái lượm. Các thành viên trong bộ lạc rất giỏi săn bắn và câu cá. Bộ tộc này không có ngôn ngữ bình thường, những người trong bộ tộc giao tiếp riêng với nhau bằng ngôn ngữ riêng và ngôn ngữ của họ chỉ là những tiếng la hét, tiếng hú, tín hiệu khói, đánh dấu đường mòn và khả năng đọc dấu chân. Chỉ có một số người Korowai có thể đọc và viết được trong tổng số 2.868 người trong bộ tộc của họ. -
Sentinelese sống ở quần đảo Andaman của Ấn Độ. Dân số khoảng 250-500 người, sử dụng ngôn ngữ Negritos. Như hầu hết các bộ tộc khác, người Sentinelese sống chủ yếu bằng săn bắn và hái lượm. Năm 2004, một cơn sóng thần đã ập đến vùng đất mà họ sinh sống nhưng không có một lý do nào giải thích được tại sao họ lại sống sót qua thảm họa đó. Theo các nhà nhân chủng học, nhiều khả năng người Sentinelese là hậu duệ của một trong những nhóm người đầu tiên rời khỏi châu Phi và họ đã đến đảo Sentinel từ 60.000 năm trước. Bằng cách hái lượm, đánh cá, người Sentinelese sống như thời nguyên thủy. Họ biết sử dụng lửa nhưng lại không hề biết đến nông nghiệp và hoàn toàn cô lập với thế giới bên ngoài. Thứ duy nhất có liên quan đến văn minh nhân loại là những mũi tên bằng sắt, được người Sentinelese chế tác từ những mảnh sắt thép ở vỏ tàu đắm.
Xã hội Sentinelese không sống theo chế độ quần thể mà có từng gia đình riêng. Thức ăn của họ chủ yếu là dừa, chim chóc, các loài bò sát, hải sản - nướng hoặc ăn sống. Người Sentinel được ghi nhận là cộng đồng chống lại mọi nỗ lực liên lạc với bên ngoài, kể cả bằng các hành xử thô bạo và giết người. Họ được cho là đã sống trên Đảo Bắc Sentinel chừng 55.000 năm, duy trì một xã hội săn bắt hái lượm, có nguồn sống nhờ việc săn bắt, câu cá, và thu thập động thực vật hoang dã. Không có bằng chứng về các hoạt động nông nghiệp của họ. Người Sentinel là một trong các thành phần được bảo vệ ở Ấn Độ theo điều gọi là "Scheduled Castes and Scheduled Tribes". Tháng 9 năm 1991, Chính phủ Ấn Độ cấm tất cả các loại tàu thuyền vào đảo vừa để tránh xung đột vừa ngăn chặn bệnh tật lây lan vì rất có thể người Sentinel không có sức đề kháng trước những loại vi khuẩn, virus...
-
Piaroa là bộ tộc bản địa sống ở lưu vực sông Orinoco ở Venezuela. Theo thống kê của tổ chức INE, bộ tộc này có khoảng 14 nghìn người với 500 người sống ở bờ trái sông Piaroa ở Colombia. Họ sử dụng một loại thuật ngữ không rõ nguồn gốc. Piaroa đều có tính quân binh mạnh mẽ và hỗ trợ cho sự tự chủ cá nhân. Hiện mối quan hệ của Piaroa với các bộ tộc lân cận không được thân thiện. Mâu thuẫn phát sinh từ hồ đất sét ở thung lũng Guanay, là loại đất sét tốt dùng để làm gốm. Người Piaroa sống ở một khu vực tương đương với diện tích của Bỉ, được bao quanh một cách gần đúng bởi Parguaza (bắc), Ventuari (đông nam), Manapiare (đông bắc) và hữu ngạn Orinoco (tây). Mặc dù đôi khi được mô tả là một trong những thế giới Hầu hết các xã hội hòa bình, các nhà nhân chủng học hiện đại báo cáo rằng mối quan hệ của Piaroa với các bộ tộc láng giềng thực sự là "không thân thiện, được đánh dấu bằng chiến tranh vật lý hoặc phép thuật".
Xung đột bạo lực nổ ra giữa Piaroa và wæñæpi của vùng Upper Suapure và Guaviarito, với cả hai bộ tộc chiến đấu để kiểm soát các hố đất sét của thung lũng Guanay. Đất sét từ thung lũng đó là một mặt hàng có giá trị, là loại đất sét tốt nhất để làm đồ gốm trong vùng. Chiến tranh liên tục cũng tồn tại giữa Piaroa và Caribs, những người đã xâm chiếm lãnh thổ Piaroa từ phía đông để tìm kiếm những người bị bắt. Tôn giáo Piaora truyền thống liên quan đến pháp sư và là xoay quanh một vị thần sáng tạo tên là Wahari, người được cho là đã hóa thân thành một heo vòi. Tuy nhiên, nhiều người Piaora đã chuyển đổi sang Cơ đốc giáo và ảnh hưởng của các pháp sư đối với các cộng đồng địa phương đã suy yếu khi các thế hệ Piaora mới ngày càng được giáo dục và hiện đại hóa.
-
Waodani là người gốc Amerindian sống ở khu vực rừng Amazon ở Ecuador. Họ gồm 4.000 cư dân, nói tiếng Huaorina - thứ ngôn ngữ cô lập không liên quan tới bất cứ loại ngôn ngữ nào khác. Trong nền văn hóa của họ, thuyết linh vật truyền thống giữ vai trò quan trọng, không có sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, các linh hồn có mặt khắp mọi nơi. Họ sinh sống từ xã hội săn bắn tập trung thành các khu định cư rừng lâu dài và từ chối mọi liên hệ với thế giới bên ngoài. Họ có sự khác biệt rõ rệt với các nhóm dân tộc khác từ Ecuador. Vùng đất tổ tiên của họ được nằm giữa Curaray và Napo sông, khoảng 50 dặm (80 km) về phía nam El Coca. Trong 40 năm qua, họ đã chuyển từ xã hội săn bắt và hái lượm sang sống chủ yếu trong các khu định cư rừng lâu dài.
Nói tóm lại, như một người Waodani đã nói, "Những con sông và cây cối là cuộc sống của chúng ta." Trong tất cả các đặc điểm cụ thể của nó, khu rừng đan xen vào mỗi cuộc sống và quan niệm của người Waodani về thế giới. Họ có kiến thức rất chi tiết về địa lý và sinh thái của nó. Săn bắn cung cấp một phần chính trong chế độ ăn uống của người Waodani và có ý nghĩa văn hóa. Trước khi bữa tiệc săn bắn hoặc câu cá diễn ra, cộng đồng shaman thường sẽ cầu nguyện cho một ngày để đảm bảo thành công của nó. Theo truyền thống, các sinh vật bị săn bắt chỉ giới hạn ở khỉ, chim và loài thú hoang dã . Cả động vật ăn thịt trên cạn và chim săn mồi đều không bị săn đuổi. Theo truyền thống, có rất nhiều điều cấm kỵ trong săn bắn và ăn uống. Họ từ chối ăn hươu, với lý do mắt hươu trông giống mắt người. Họ tin rằng linh hồn động vật đã chết sẽ sống tiếp và phải được xoa dịu nếu không sẽ bị tổn hại trong quả báo giận dữ...
-
Wayampi là tộc người bản xứ sống men theo các lưu vực sông ở Brazil. Dân số khoảng 1.615 người rải rác ở 11 khu làng. Họ sử dụng ngôn ngữ Wayampi và viết bằng chữ Latinh nhưng tỉ lệ biết chữ thấp. Bộ tộc này lập các nương rẫy nông nghiệp và săn bắn sử dụng mũi tên là chủ yếu. Wayampi có quan hệ thương mại tuyệt vời với tộc người da đỏ Wayana, họ chủ yếu trao đổi buôn sợi bông, chó săn, lông chim làm vũ khí,...Người Wayampi sinh sống ở Guiana, một tỉnh hải ngoại thuộc Pháp ở Nam Mỹ, và Brazil. Từ thế kỷ 18, nhiều người Wayampi đã tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua các nhà truyền giáo. Các nhà nghiên cứu cho biết, hiện nay thế giới chỉ còn hai bộ tộc người Wayampi sống tách biệt hoàn toàn với bên ngoài. Họ chống lại người phương Tây, những nhà truyền giáo và thậm chí là các bộ tộc Wayampi láng giềng.
Phương thức sinh tồn của cư dân hai bộ tộc này là đánh cá, săn bắn, trồng trọt các loại cây như chuối, khoai lang. Người Wayampi có ba phương ngữ: Amapari Wayampi, Jari, và Oiyapoque Wayampi. Ngôn ngữ được viết theo ngữ âm dựa trên Bảng chữ cái phiên âm quốc tế, chứ không phải theo chính tả tiếng Pháp hoặc tiếng Bồ Đào Nha. Tỷ lệ biết chữ thấp. Wayampi đã từng chiến đấu với thực dân Pháp. Năm 1763, các tu sĩ Dòng Tên rời đi và phần lớn dân số giải tán. Từ đó họ trở nên hoàn toàn bị cô lập. Các báo cáo từ năm 1770 cho thấy tổng dân số là 6.000, so với 835 vào năm 1990. Từ năm 1820, một số nhóm phía bắc bắt đầu tiếp xúc với các quan chức Pháp và Maroons , nhưng hầu hết người Wayampi vẫn tiếp tục cô lập trong rừng A-ma-dôn trong suốt thế kỷ 18 và 19. Sự cô lập đến mức chỉ có thể đóng những chiếc xuồng tạm thời.
-
Carabayo là bộ tộc nằm ở phía đông nam của Colombia. Họ không thường xuyên tiếp xúc với bên ngoài. Các cuộc tấn công bạo lực và khai thác cao su đã dẫn đến sự cô lập ngày càng gia tăng. Họ có thể giao tiếp với nhiều thứ ngôn ngữ nhưng ngôn ngữ chủ yếu của những người thân trong gia đình là Tikuna- Yuki. Trong 400 năm qua, người Carabayo thường xuyên tiếp xúc với người ngoài, bao gồm cả các cuộc tấn công bạo lực của những kẻ buôn bán nô lệ và những người khai thác cao su, khiến họ phải rút lui khỏi các nhóm bên ngoài và gia tăng cô lập. Người Carabayo còn được gọi là người Aroje hoặc Yuri.
Vào tháng 12 năm 2011, Tổng thống Juan Manuel Santos đã ký sắc lệnh pháp lý số 4633, đảm bảo cho những người không bị can thiệp như Carabayo quyền tự nguyện cô lập, lãnh thổ truyền thống và sự đền bù nếu họ phải đối mặt với bạo lực từ bên ngoài. Ngôn ngữ Carabayo (Caraballo) được sử dụng bởi Người Carabayo, còn được gọi là Yuri và Aroje, một người Amazonian không giao tiếp của Colombia sống trong ít nhất ba ngôi nhà dài, một trong số nghi ngờ là các dân tộc sống dọc theo (nay là) ở góc đông nam của đất nước.
-
Toromona là người bản địa của Bolivia. Sử dụng ngôn ngữ Tacanan. Tôn giáo là tôn giáo bộ lạc truyền thống. Theo một số ghi chép cho biết thì bộ tộc này không hề có lòng thương xót trong việc giết người. Không có người bản xứ nào liên lạc với bộ tộc này. Trong quá trình thực dân hóa Tây Ban Nha, người Tây Ban Nha cảm thấy khó khăn trong việc ổn định cuộc sống tại khu vực của Amazon, nơi mục tiêu chính của họ là tìm một nơi bí mật được gọi là Paititi, một nơi ẩn náu được cho là của Kho báu lớn nhất của người Inca mà người Inca đã che giấu khỏi người Tây Ban Nha. Có một số ghi chép lịch sử xác nhận rằng người Inca đã niêm phong các đường hầm trong các nghi lễ nghi lễ.
Nhà sinh vật học người Na Uy đã tìm kiếm Toromona một cách toàn diện và trở nên khá nổi tiếng bởi sự biến mất của ông ở đâu đó trong khu vực của công viên Madidi vào năm 1997. Toromona thỉnh thoảng được nhìn thấy các dân tộc bản địa khác trong khu vực. Vào thế kỷ 21, nhà nhân chủng học Michael Brohan được các thành viên của người Araona thông báo rằng họ đã liên lạc với một nhóm tự nguyện bị cô lập ở bờ đông sông Manurini, những người này là người nói tiếng Toromona hoặc gần như không thể hiểu được. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định chính xác nơi định cư của bộ tộc này. Giới chức Bolivia tuyến bố, họ hoàn toàn tôn trọng cuộc sống cô lập của người Toromona. Năm 2006, chính phủ đã phân một phần của Vườn quốc gia Madidi cho họ sinh sống. -
Awa là người dân bản địa ở Brazil, sống theo hình thức bộ tộc. Hiện nay còn khoảng 350 thành viên, 100 người trong số họ không liên lạc với thế giới bên ngoài. Ngôn ngữ họ sử dụng là Tupi-Guarani. Họ sống theo lối sống du mục, nhưng sự can thiệp của thế giới bên ngoài như lấn chiếm đất đai, chặt phá rừng,... đã dần làm mất đi nền văn hóa cổ xưa của bộ tộc này. Đây là một trong những bộ tộc du mục cuối cùng ở Amazon đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cho nạn khai thác rừng, đốn gỗ và di dân chiếm đất bất hợp pháp. Người Awa đánh bắt cá trong những dòng suối trên mảnh đất của mình và họ rất thích món thịt rùa. Đàn ông Awa là những tay thợ săn lành nghề và lão luyện, họ tự làm lấy mũi tên, cung tên cho mình với những chiếc cung và mũi tên tự chế. Người dân bộ tộc Awá sống chủ yếu dựa vào rừng do tập quán săn bắt và hái lượm khiến cuộc sống của người Awa phụ thuộc rất nhiều vào rừng xanh.
Những bà mẹ người Awa địu con trên một tấm vải vắt ngang người, trước đây làm từ sợi cây cọ và nay là bằng vải. Một số người già sống trong một căn lều lợp bằng lá dừa cùng với những con thú cưng, hằng ngày, họ vẫn vào rừng để kiếm thức ăn. Trẻ em thường tới tắm và chơi đùa ở những con lạch. Bi kịch diệt chủng của cả bộ tộc này bắt đầu khi những người được mệnh danh là văn minh xuất hiện và xây dựng các khu định cư bất hợp pháp. Sau đó, họ thuê các tay súng tàn sát những người trong bộ tộc Awa dám đứng lên bảo vệ vùng đất nơi mình sinh sống. Nhiều người Awa thậm chí tận mắt nhìn thấy gia đình mình bị xóa sổ một cách thảm khốc.