Top 13 Bộ tộc kỳ lạ nhất trên thế giới

Dương Thị Khánh Ly 5343 0 Báo lỗi

Hiện nay trên thế giới còn có khá nhiều các cộng đồng dân cư sinh sống dưới hình thức các bộ lạc. Có những bộ tộc đã theo kịp với cuộc sống hiện đại nhưng cũng ... xem thêm...

  1. Bộ tộc Mustang hiện có khoảng 7000 người đang sống rải rác trong thung lũng sông Kali Ghandaki (giữ Tây Tạng và bắc Nepal). Họ tự gọi là ‘Vùng đất của người Lo’. Xuất phát từ quan điểm rằng mỗi anh em trong gia đình lấy một người vợ riêng thì đất đai sẽ bị chia cắt thành nhiều phần và gia đình sẽ bị nghèo đói, do vậy mà anh em trong một gia đình thường có chung một vợ. Truyền thống của người Mustang có mối liên hệ mật thiết với Phật giáo. Phần lớn thành viên trong bộ tộc tin rằng trái đất phẳng, bệnh tật do ma quỷ gây ra và chỉ có thể bị xua đuổi khi các nhà sư làm lễ trừ tà. Nền văn hóa Mustang được xem là một trong số những nền văn hóa Tây Tạng cuối cùng còn tồn tại.

    Ở đây có một phong tục lạ lùng là anh em trong gia đình có chung một vợ. Phong tục này bắt nguồn từ niềm tin tôn kính của người Mustang đối với phong tục Tây Tạng cổ. Ngoài ra, điều này cũng xuất phát từ thực tế là đất đai của người Mustang rất hiếm và cằn cỗi. Nếu mỗi người lấy một vợ riêng thì đất đai sẽ bị chia cắt thành nhiều phần, khiến cho gia đình trở nên nghèo đói hơn. Phong tục này bắt nguồn từ niềm tin tôn kính của người Mustang đối với tục lệ Tây Tạng cổ.

    Bộ tộc Mustang
    Bộ tộc Mustang

  2. Nét đặc trưng của bộ lạc Mursi ở thung lũng Omo, Ethiopia, Châu Phi là phụ nữ phải đeo một chiếc đĩa gốm lớn ở vành môi. Đây là một biểu tượng sắc đẹp kì lạ tại vùng đất này, theo quan điểm của họ, đĩa càng lớn thì môi càng đẹp. Việc xuyên vào môi những chiếc đĩa được làm bằng đất sét là một truyền thống lâu đời của những cô gái trong bộ tộc này. Đây là cách làm đẹp của họ và họ tin rằng khi gắn chiếc đĩa lên môi họ sẽ trông duyên dáng hơn, đồng thời làm môi bị biến dạng sẽ không bị bắt làm nô lệ. Họ còn quan niệm rằng, chiếc đĩa trên môi càng lớn thì họ càng nhận được nhiều của hồi môn từ nhà chồng. Nhiều bằng chứng từ các nhà khoa học cho hay, tục gắn đĩa vào môi này có từ năm 1896. Người dân thời đó tin rằng việc đeo những chiếc đĩa môi và làm môi biến dạng sẽ giúp họ không bị bắt cóc để bán đi làm nô lệ.


    Các cô gái bắt đầu từ độ tuổi 15 đến18 sẽ được nhổ 2 răng cửa phía dưới để kéo cho phần môi dài ra và những người phụ nữ lớn tuổi sẽ giúp họ xuyên những chiếc lỗ qua môi. Chính phủ Ethioia vừa ra lệnh cấm phụ nữ mang đĩa môi. Tuy vậy vẫn còn không ít người thích mang đĩa môi. Đối với những người phụ nữ Surma, chiếc đĩa môi có nhiều ý nghĩa. Nó vừa thu hút người khác giới và rất có ích trong việc nhận của hồi môn. Kích thước đĩa càng lớn, các cô gái càng được đánh giá cao và được nhận nhiều hồi môn là gia súc khi đi lấy chồng. Chiếc đĩa thường được chính người phụ nữ này trang trí để thể hiện kỹ năng của mình. Họ nhét vào vành môi đĩa làm bằng đất sét hoặc gỗ, để chứng tỏ bản thân đã trưởng thành và có thể sinh đẻ. Chiếc đĩa môi càng lớn, càng chứng tỏ rằng bạn là một cô gái hấp dẫn và sẽ thu hút sự chú ý của nhiều người đàn ông quyền lực nhất trong làng.

    Những cô gái với chiếc đĩa gắn trên môi
    Những cô gái với chiếc đĩa gắn trên môi
  3. Bộ tộc Mangtegu ở Công gô quan niệm rằng người nào có đầu càng dài thì người đó càng đẹp, càng thông minh và quý phái. Họ cũng tin rằng việc kéo dài đầu sẽ khiến các thần linh hài lòng và mang đến cho bộ tộc những điều tốt lành. Theo cách làm đẹp của bộ tộc này thì đầu càng dài càng tốt và phải được kéo nghiêng về phía sau, tạo góc 45 độ với mặt đất mới được xem là hoàn hảo. Trong quan niệm về cái đẹp của bộ tộc Mangtebu ở Congo, đầu của ai càng dài thì càng đẹp và cũng chứng tỏ người đó cao quý và thông minh hơn những người khác.

    Theo cách làm đẹp này, những người trong bộ tộc phải làm cho phần đầu của mình dài hơn bình thường càng nhiều càng tốt. Song, chiếc đầu không chỉ đơn thuần được kéo dài ra theo phương thẳng đứng thông thường mà phải nghiêng về phía sau và tạo mới mặt đất một góc khoảng 45 độ mới được cho là đẹp. Trong quan niệm của người Mangbetu, người sở hữu chiếc đầu dài sẽ được cho là có địa vị cao hơn trong xã hội, thông minh và gần gũi với các thần linh hơn. Họ cũng tin rằng việc kéo dài đầu sẽ khiến các thần linh hài lòng và nhờ đó sẽ phù hộ và mang đến những điều tốt lành cho bộ tộc. Bởi vậy, từ khi còn nhỏ, những người Mangbetu đã chấp nhận đau đớn để có một chiếc đầu dài đẹp như ý muốn. Đối với phụ nữ, người Mangbetu cũng quan niệm, cô gái sở hữu chiếc đầu dài và có độ nghiêng hợp lý được cho là một phụ nữ đẹp. Ngoài ra, người phụ nữ đó sẽ càng đẹp hơn nếu như họ sở hữu một cái trán phẳng. Để có được cái trán phẳng phải phụ thuộc rất nhiều vào bàn tay khéo léo của những người làm nhiệm vụ kéo dài đầu.

    Bộ tộc Mangtegu ở Công gô
    Bộ tộc Mangtegu ở Công gô
  4. Những người phụ nữ thuộc bộ tộc Hamar ( Nam Ethiopia) chứng minh tình yêu của họ bằng những vết lằn trên lưng do bị đánh. Nếu trên lưng bị đánh càng đau thì họ càng cảm thấy tự hào vì chứng tỏ được sự mạnh mẽ, kiên cường và tình cảm mãnh liệt của họ dành cho những chàng trai của bộ tộc. Thay vì căm giận hoặc chạy trốn khi bị những người đàn ông cầm gậy đánh vào lưng, những người phụ nữ thuộc bộ tộc Hamar lại yêu cầu bị đánh thêm cho đến khi thân thể họ tóe máu đến mức để lại những vết sẹo lớn trên cơ thể với niềm tự hào. Hẳn không ít bạn sẽ cảm thấy lạ lẫm nhưng những vết lằn trên cơ thể người phụ nữ của bộ tộc Hamar này được ghi dấu trong buổi lễ trưởng thành và là cách họ thể hiện tình yêu của mình.

    Đàn ông Hamar dành phần lớn thời gian chăm sóc gia súc để kiếm tiền lấy vợ mà theo lệ làng, đồ thách cưới tương ứng với 30 con dê và 20 con bò. Sau khi cưới, những phụ nữ ở bộ tộc này cũng phải làm rất nhiều việc như chăm sóc trẻ em cũng như trồng lúa để sinh sống. Sống ở sâu trong thung lũng Omo nằm ở phía Nam Ethiopia, bộ tộc người Hamar được biết đến là một bộ tộc tôn trọng các nghi thức văn hóa và lễ nghi. Dù đã trải qua hàng trăm năm nhưng người Hamar vẫn sinh sống theo những phong tục cổ xưa, gìn giữ một cách trọn vẹn các giá trị văn hóa, trong đó có tục lệ đánh đập phụ nữ trong ngày lễ “nhảy bò”.

    Bộ tộc Hamar
    Bộ tộc Hamar
  5. Bộ tộc Sentinelese sống ở phía bắc hòn đảo Sentinel (Ấn Độ) và có khoảng 500 người. Họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắt, hái lượm và câu cá nhưng hầu như họ không sử dụng lửa trong cuộc sống. Họ sẵn sàng tấn công và giết chết bất cứ một người lạ nào xâm nhập vào lãnh thổ của bộ tộc. Vì vậy rất ít người biết về bộ tộc này cũng như ngôn ngữ và các phong tục của họ. Đây là một trong những tộc người tách biệt với thế giới bên ngoài. Họ từ chối mọi sự liên lạc. Khi phát hiện người lạ tới gần, thành viên của bộ tộc sẽ chào đón họ bằng mũi tên.


    Người Sentinelese sống chủ yếu bằng săn bắn, hái lượm và câu cá. Không có bằng chứng cho thấy họ dùng các phương thức tạo lửa hay chăn nuôi, trồng trọt. Năm 2004, họ đã sống sót kỳ diệu sau trận sóng thần. Tới nay người ta vẫn chưa hiểu vì sao họ vượt qua thảm họa. Người Korowai trong nhiều năm được biết đến là bộ tộc sống tách biệt với thế giới hiện đại. Cuộc tiếp xúc đầu tiên của họ với thế giới bên ngoài diễn ra từ những năm 1970. Theo ghi nhận khi đó, người Korowai ở trần, đàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy kết từ cỏ, săn bắn hái lượm như thời nguyên thuỷ. Họ sống trong nhà trên ngọn cây cao để tránh ruồi muỗi, thú dữ và kẻ thù. Những ngôi nhà này được dựng trên một thân cây, hầu hết cao 8-12 mét, căn cao nhất lên đến 35 mét. Họ chữa bệnh bằng thảo dược, do đó tỷ lệ tử vong do sốt rét, lao, phù chân voi hay thiếu máu đặc biệt cao. Người Korowai tin rằng người bệnh chết vì một con quỷ mang hình hài của con người tên là "khakhua". Điều này phần nào là nguồn gốc cho lời đồn rằng người Korowai ăn thịt đồng loại, do tin họ ăn thịt bất kỳ ai bị quỷ "khakhua" lấy mạng để bảo vệ cả bộ tộc.

    Bộ tộc Sentinelese
    Bộ tộc Sentinelese
  6. Bộ tộc Yanomami là thổ dân da đỏ bản địa ở vùng rừng rậm Amazon nằm ở biên giới giữa Venezuela và Brasil với dân số chừng 20.000 người. Họ sống trong hàng trăm ngôi làng và tạo thành nhóm bộ lạc lớn nhất trong rừng Amazon. Bộ tộc có tập tục kỳ lạ. Bộ tộc Yanomami sống trong rừng rậm Amazon có một tục lệ kỳ lạ chính là ăn tro cốt của người chết sau khi hỏa táng như một cách để tỏ lòng thương xót với người đã mất. tro cốt của người chết được đem hòa lẫn với món súp chuối và họ tin rằng việc ăn tro cốt sẽ giúp cho người đã mất được hòa quyện vào cơ thể người sống, linh hồn của người đó sẽ được tiếp thêm sức mạnh và quyền năng để có thể trải qua mọi kiếp nạn trên đường về thế giới bên kia.


    Kể từ khi được phát hiện đến nay, bộ tộc ở rừng Amazon này vẫn sống hoang dã như tổ tiên của họ và không muốn liên hệ với thế giới bên ngoài, không muốn thay đổi thói quen từ thuở xa xưa. Yanomami là bộ tộc lớn nhất vẫn giữ nếp sống nguyên thủy, với gần 38.000 người sinh sống tại Brazil và Venezuela. Bộ tộc này có tập tục tụ họp dưới mái nhà chung shabono. Trung bình, một shabono có chu vi chừng 90m, hình tròn, giữa là khoảng sân rộng, làm từ các nguyên liệu tự nhiên như lá và dây leo của rừng nhiệt đới. Cứ mỗi 4-6 năm/lần, người Yanomami lại dỡ bỏ shabono cũ, dựng cái mới. Trong tộc Yanomami, bé trai vừa lên 8 tuổi đã được coi là đàn ông, bé gái sau kỳ kinh đầu tiên được xem như phụ nữ trưởng thành. Họ phân công công việc rất rõ ràng, thích xăm mình, am tường kiến thức tự nhiên. Yanomami cũng là tộc xuất sắc trong việc chế tạo và sử dụng chất độc từ thực vật. Đàn ông trong tộc rất hiếu chiến, sẵn sàng "động thủ" trước bất cứ mối đe dọa nào, bất chấp chuyện phải đổ máu.

    Bộ tộc Yanomami
    Bộ tộc Yanomami
  7. Bộ tộc này có tên là Surma và sinh sống ở phía Tây nam của đất nước Ethiopia. Truyền thống uống máu bò tươi để giải khát của bộ tộc này đã tồn tại từ lâu đời. Họ quan niệm rằng việc uống máu bò mang một ý nghĩa tâm linh sâu sắc, giúp tăng cường sinh lực và sức mạnh cho những người đàn ông trong bộ tộc. Những người đàn ông trong bộ tộc này thường chọn uống máu của những con bò dũng mãnh mà khoẻ manh. Dù được tiếp xúc thường xuyên với thế giới văn minh, người dân bộ tộc Masaai vẫn giữ rất nhiều hủ tục rùng rợn. Người Surma hay còn gọi là Suri, sinh sống bên bờ Tây sông Omo, Ethiopia. Bộ tộc này vẫn duy trì chế độ phụ hệ đã nhiều năm qua, đàn ông làm chủ gia đình và cai quản mọi việc.

    Một trong những tục lệ khiến du khách và nhiều tổ chức bảo vệ động vật lên án kịch liệt là nghi lễ đâm bò và uống máu trực tiếp từ vết thương đang chảy của con vật. Dù đã bào chữa rằng con bò sẽ được băng bó vết thương sau đó, tục lệ này vẫn dấy lên sự phẫn nộ của rất nhiều người yêu động vật. Ngoài ra, ở bộ tộc Masaai, không chỉ đàn ông phải cắt bao quy đầu mà những cô gái cũng bị cắt một phần bộ phận sinh dục. Họ giải thích rằng, uống máu tươi là sở thích, là cách tăng cường sinh lực, sức mạnh cho các chiến binh. Theo họ, tục lệ này cũng mang ‎ý nghĩa tâm linh sâu sắc.

    Nghi lễ uống máu tươi được tiến hành vào lúc sáng sớm. Người đàn ông trong bộ tộc sẽ chọn một con bò khỏe mạnh, dũng mãnh để lấy máu. Họ dùng cung tên để bắn vào phần cổ bò, trúng tĩnh mạch, máu sẽ chảy ra xối xả, thành tia. Bát máu tươi sẽ được dâng lên cho tộc trưởng uống đầu tiên, sau đó đến những người lớn tuổi, người trưởng thành và thanh niên trai tráng trong bộ tộc. Máu bò tươi trở thành thứ nước giải khát mà người Surma thích thú và coi trọng. Tục uống máu bò tươi vẫn được thực hiện cho đến ngày nay, mặc dù bị coi là tục lệ khủng khiếp và sở thích quái dị, song người Surma vẫn vô cùng thích thú với thức uống "nóng hổi" này.

    Bộ tộc Surma
    Bộ tộc Surma
  8. Đây chính là bộ tộc Trobiand thuộc Papua New Guinea. Một luật lệ đặc biệt có ở bộ tộc này chính là những người phụ nữ có quyền chủ động ép một người đàn ông quan hệ qua đêm với mình chỉ cần họ thích đồng thời những người phụ nữ cũng có quyền ngoại tình sau khi kết hôn nếu họ muốn điều đó. Quần đảo Trobriand thuộc Papua New Guinea nằm ở phía Tây Thái Bình Dương. Khác với những dân tộc và bộ lạc khác trên thế giới, nơi đây vẫn duy trì chế độ mẫu hệ, người phụ nữ có quyền lực tuyệt đối trong gia đình, bộ lạc.

    Và đặc biệt, phụ nữ nơi đây còn được ban một đặc quyền kì dị, đó là được phép cưỡng bức đàn ông trong bộ tộc. Bở vậy đàn ông nơi đây rất sợ việc ra đường vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể bị phụ nữ... cưỡng bức. Ở đảo Trobriand, nếu có một người đàn ông nào lọt vào tầm ngắm của người phụ nữ thì tối đến người phụ nữ đó sẽ chủ động đến nhà chàng trai, đi thẳng vào giường anh ta và ngủ cho đến tận sáng. Và điều tiếp theo diễn ra là chàng trai đó nghiễm nhiên phải lấy người phụ nữ đó làm vợ mà không được phép có ý kiến gì. Đau khổ cho đàn ông hơn nữa, là khi cô vợ chán, cô ta sẽ mang theo một cái nồi, dắt theo đàn con đi là xong chuyện. Người chồng chỉ có nước đứng khóc nhìn theo gót chân vợ con, mà không thể làm gì hơn. Chẳng hiểu do nữ quyền, tự do tình dục tuyệt đối, hay do phụ nữ ở quốc gia này “máu lửa”, mà họ thường xuyên bắt cóc đàn ông để cưỡng bức.

    Bộ tộc phụ nữ được phép cưỡng bức đàn ông
    Bộ tộc phụ nữ được phép cưỡng bức đàn ông
  9. Đây là bộ tộc người cá Bajau. Bộ tộc này sinh sống chủ yếu nhờ nước và tất cả mọi sinh hoạt hàng ngày của họ đều dính đến nước, tóm lại nước là thứ không thể thiếu trong bất kỳ trường hợp nào. Trẻ em của bộ tộc này phải học cách bơi lội, lặn và đánh bắt cá từ khi mới lên. Một điểm đặc biệt là họ không sống tập trung mà lại sống riêng lẻ và phân tán ra nhiều nơi khác nhau. Họ cất những ngôi làng nổi giữa các khu vực có san hô. Đó chính là những người Bajau Laut, bộ tộc ngư dân lâu năm của vùng biển Sulawesi. Họ đã sống trên biển trong suốt nhiều thế kỷ qua nhưng lại là nhóm người ít được biết đến nhất trên thế giới. Theo truyền thuyết, người Bajau có nguồn gốc từ một Công chúa người Malaysia tên là Johor, bị cuốn trôi trong một trận lũ quét. Nhà vua vì quá đau buồn nên đã lệnh cho một nhóm người ra ngoài khơi tìm kiếm, và họ chỉ được trở về khi nào tìm được công chúa. Cuộc tìm kiếm thất bại, nhóm người được lệnh không dám trở về đất liền nên đã tự hình thành một cộng đồng người du mục trên vùng biển Bajau.

    Đa phần người Bajau là người Hồi giáo dòng Sunni, phần lớn đều tin vào thế giới tâm linh của biển cả. Dân làng tin rằng, biển cả là ngôi nhà chung của họ. Bộ tộc người Bajau có thể sống hàng tháng trời lênh đênh trên biển chỉ với một con xuồng dài, hẹp và cao tên là Lepa Lepa. Sau này, cuộc sống du mục của họ gây ra sự tranh cãi về việc đi lại trên biển nên người Bajau di chuyển về đất liền. Họ chuyển lên ở các ngôi nhà sàn và tập trung thành một làng nổi trên biển nhưng vẫn duy trì những nếp sống cũ. Ngôi làng của người Bajau chỉ cách thế giới văn minh khoảng 1 giờ đi biển, thế nhưng cuộc sống của họ vẫn mang tính hoang dã và du mục.

    Thức ăn của người Bajau đơn giản là cá và chuối. Họ trộn tinh bột sắn với nước, lá khô rồi bôi lên mặt giống như một loại kem chống nắng. Người Bajau được mệnh danh là “người cá” vì họ là những thợ lặn tài ba nhất thế giới. Họ có thể lặn xuống đáy biển để săn cá và bạch tuộc chỉ bằng những cây giáo tự chế. Những đứa trẻ trong bộ tộc được huấn luyện bơi lội từ khi còn rất nhỏ. Để tai không bị nổ trước sức ép trọng lực của nước khi bơi lội, người Bajau phải chọc thủng màng nhĩ của mình. Phải mất một tuần nằm im bất động để vết thương ở tai lành lại, sau đó họ có thể bơi lội mà không cảm thấy đau đớn. Bởi vậy mà tất cả những người dân trong bộ tộc đều bị nặng tai, thậm chí họ không còn khả năng nghe thấy âm thanh bên ngoài. Với đôi tai không còn nghe được âm thanh, đôi mắt của họ lại phát huy khả năng gấp 2 lần so với người bình thường, điều này giúp họ có thể nhìn mọi vật dưới nước một cách dễ dàng.

    Bộ tộc người cá ở Malaysia
    Bộ tộc người cá ở Malaysia
  10. Zulu là nhóm dân tộc lớn nhất và nổi tiếng nhất và là một phần quan trọng trong lịch sử phát triển của đất nước Nam Phi. Bộ tộc Zulu tổng cộng có 11-12 triệu người tập trung sinh sống chủ yếu tại tỉnh KwaZulu-Natal, phía Đông nam Nam Phi. Bộ tộc này có tên gọi là bộ tộc Zulu, sinh sống ở tỉnh Kwazulu của đất nước Nam Phi. Trong bộ tộc này có một điều rất quan trọng, đó chính là trinh tiết. Trinh tiết không chỉ quan trọng ở phụ nữ mà còn rất quan trọng ở đàn ông. Những thanh niên thường sẽ phải trải qua bài kiểm tra sự trinh tiết của họ thông qua độ cao của dòng nước tiểu mà họ phóng ra. Nếu dòng nước tiểu phóng ra cao ngang hoặc cao hơn đỉnh đầu thì học được công nhận vẫn là "trai tân".

    Những nghi thức kiểm tra trinh tiết đàn ông có phần khác lạ một chút, nếu như phụ nữ khỏa thân và nhảy múa thì đàn ông được đánh giá trinh tiết thông qua việc “đi tiểu tiện”. Buổi lễ sẽ được lựa chọn vào một ngày nhất định để những thanh niên trai tráng có thời gian chuẩn bị tinh thần và mọi thứ một cách tốt nhất. Vào buổi lễ, toàn bộ thanh niên trong bộ tộc đủ điều kiện lấy vợ sẽ được tập hợp lại trước sự chứng kiến của toàn thể dân làng. Sau khi tiến hành các nghi lễ bắt buộc theo truyền thống của bộ tộc thì buổi kiểm tra “trinh tiết nam giới” sẽ được bắt đầu. Tuy đơn giản chỉ là việc đi tiểu, nhưng cũng khiến cho các thanh niên vô cùng lo lắng, bởi chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng đủ để hứng chịu những hậu quả khôn lường. Từng người một theo thứ tự sẽ phải lên và “đi tiểu tiện” trước sự chứng kiến của toàn bộ dân làng. Sự trong trắng của mỗi anh chàng sẽ được đánh giá qua độ cao và độ xa của dòng nước tiểu được phóng ra. Những chàng trai phải phóng làm sao cho nước tiểu cao bằng đỉnh đầu, càng cao thì càng được nhiều người công nhận là “trai tân”.

    Nhưng ngược lại, ác mộng sẽ đến với những người không thể phóng nước tiểu tới đỉnh đầu, họ sẽ phải chịu những hình phạt theo luật đã định ra. Nghi thức kiểm tra trinh tiết đã dần dần trở thành một phần văn hóa không thể thiếu trong đời sống của tộc người Zulu. Họ không cảm thấy xấu hổ mà ngược lại còn rất tự hào về phong tục này của mình.

    Bộ tộc Zulu
    Bộ tộc Zulu
  11. Người lùn Pygmy là những cư dân lâu đời nhất Trung Phi, phân bố chủ yếu tại các khu rừng ở Congo. Đây là chủng tộc "thấp bé nhẹ cân" nhất thế giới khi người trưởng thành chỉ cao khoảng 1,2 - 1,3m, người Pygmy cao nhất cũng chỉ 1,4m và cân nặng không quá 50kg. Người lùn Pygmy có dáng vẻ khá khác lạ với chiếc bụng to, chân ngắn, rốn lồi, mũi tẹt, da đen, tóc xoăn tít. Theo các nhà khảo cổ, họ có mặt lần đầu tiên tại vùng Trung Phi và được biết là những người kế thừa nền văn minh của người Sanga tiền sử. Người Pygmy là tộc người nhỏ bé nhất thế giới. Họ là những cư dân xuất hiện sớm nhất tại vùng Trung Phi, cũng là hậu thế của nền văn minh Sanga. Điều kỳ lạ là chức năng sinh lý của tộc người này phát triển từ 8 - 9 tuổi. Các bé gái, bé trai tới độ tuổi này được xem là đã trưởng thành và bắt đầu quan hệ. Đây là một mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển biến một bé gái đồng trinh thành người phụ nữ thực sự, thậm chí bắt đầu sinh con đẻ cái.


    Các nhà nghiên cứu đã phân tích hệ gene của người Pygmy và giải thích được tại sao họ lại có chiều cao khiêm tốn như vậy. Đó là bởi người Pygmy thường sống trong rừng rậm - nơi có điều kiện ánh sáng thấp, thiếu vitamin D, hạn chế sự hấp thu canxi từ chế độ ăn uống. Thức ăn thiếu canxi, i-ốt cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế chiều cao của người Pygmy. Tuy vậy, họ luôn tuân thủ theo chế độ một vợ một chồng, phân công lao động rất công bằng, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít. Người Pygmy không biết dùng vải vóc để may quần áo mà chỉ sử dụng lá chuối, lá cọ để che đi các phần nhạy cảm trên cơ thể. Xương voi, vỏ bọ cánh cứng, sừng linh dương... được tận dụng để làm đồ trang sức và cũng là lễ vật dùng cho việc cưới xin. Thân hình nhỏ bé nhanh nhẹn là một lợi thế, với khứu giác, thị giác, thính giác vô cùng nhạy bén, người Pygmy có khả năng bắn tên không một bộ tộc nào địch được. Họ có ngôn ngữ riêng, nhưng lại không biết đến con số, chữ viết, không nắm được quy luật thời gian nên họ không bao giờ biết tuổi tác của mình. Ngày nay, người Pygmy chỉ còn khoảng 500.000 người. Họ đang trên bờ tuyệt chủng bởi sự tàn phá rừng làm mất môi trường sống; chiến tranh; nạn diệt chủng; sự phân biệt đối xử...

    Bộ tộc nhỏ bé nhất thế giới
    Bộ tộc nhỏ bé nhất thế giới
  12. Bộ tộc Wodaabe – một bộ tộc kỳ lạ, nơi đàn ông mặc váy và thi sắc đẹp. Cuộc thi sắc đẹp có lẽ là cuộc thi cạnh tranh quyết liệt nhất thế giới, hơn cả thi hoa hậu. Bởi lẽ người chiến thắng, ngoài vinh dự được tung hô, còn có thể chiếm được một người vợ xinh đẹp. Những người phụ nữ ở bên dưới cũng lựa chọn người chồng tiếp theo cho riêng mình. Nếu họ thích một ai đó, họ sẽ tự nguyện “bị cướp” bởi người đó và sẵn sàng bỏ chồng mình lại phía sau. Cuộc thi sắc đẹp này chỉ dành cho đàn ông của bộ tộc Wodaabe, một bộ tộc du mục luôn tự cho mình là người đẹp nhất trên thế giới.

    Cứ vào tháng 9, cuối mùa mưa, bộ tộc Wodaabe lại tổ chức lễ Gerewol - một cuộc thi sắc đẹp cho đàn ông sau một mùa di cư. Họ di cư qua sa mạc Sahel khắc nghiệt, họ dừng chân ở Nigeria, Cameroon, Trung Phi, Chad…Điểm nhất của lễ hội là phần thi Yakke, nơi những người đàn ông trình diễn sắc đẹp trước ba nữ giám khảo. Họ vẽ đất sét đỏ lên mặt, kẻ mắt đen làm nổi bật lòng trắng, son môi đỏ khoe hàm răng. Một chiếc lông đà điểu trắng cài tóc cùng một sọc sơn trắng dọc mũi. Những người đàn ông sẽ đứng thành hình tròn, được ba nữ giám khảo đánh giá. Cả ba nữ giám khảo này đều phải có người cha từng giành Yaake.

    Trong khi những người giám khảo đánh giá, phụ nữ ở bên dưới cũng lựa chọn người chồng tiếp theo cho riêng mình. Nếu họ thích một ai đó, họ sẽ tự nguyện “bị cướp” bởi người đó và sẵn sàng bỏ chồng mình lại phía sau. Những ai muốn “bị cướp” sẽ chờ đến khi người đàn ông yêu thích của họ đi qua và nhảy lên vai anh chàng. Thực tế, phụ nữ Wodaabe là những người có quyền tự do, họ muốn có bao nhiêu chồng cũng được.

    Bộ tộc đàn ông mặc váy và thi sắc đẹp
    Bộ tộc đàn ông mặc váy và thi sắc đẹp
  13. Tại các bộ lạc Uganda, người ta coi việc lấy các cô gái còn trinh tiết là một điều sỉ nhục. Nếu như một vị thủ lĩnh bộ lạc lấy một cô gái còn trinh tiết làm vợ thì chắc chắn ông ta sẽ bị cả bộ tộc ấy khinh rẻ, coi thường dù là thủ lĩnh. Điều thú vị hơn nữa chính là, để tránh việc các thủ lĩnh lấy phải những cô gái còn trinh, trong các bộ lạc này còn có một nghề được coi là rất “bất hạnh” đó chính là ăn nằm với các cô gái còn trinh tiết. Những người bất hạnh này được giao nhiệm vụ khổ hạnh đó là ăn nằm trước với những ứng cử viên được tuyển làm vợ của thủ lĩnh để chắc chắn rằng, họ không còn trinh tiết khi trở thành vợ của thủ lĩnh bộ tộc. Người dân thuộc các bộ tộc này cho rằng, khi người phụ nữ đã ăn nằm với đàn ông thì họ càng thuần khiết và trong trắng hơn.


    Người dân nơi đây quan niệm trinh tiết là một thứ cực kỳ độc hại và chứa nhiều vận đen. Họ cho rằng những giọt máu trinh tiết sẽ ảnh hưởng lớn đến vận mệnh và đem lại nhiều điềm dữ cho người chồng của cô dâu. Bên cạnh đó, những cô gái còn trinh được người dân Unganda cho là chưa hoàn thiện và trưởng thành, sẽ còn nhiều thiếu sót trong đời sống hôn nhân. Chính vì thế, người dân bộ lạc Uganda phải nhờ người lạ phá trinh giúp mình trước đêm tân hôn với chú rể. Những cô dâu mất trinh tiết được xem là những người hoàn hảo về mọi mặt, xinh đẹp và đem lại phúc đức cho người chồng của mình. Không chỉ riêng gì bộ lạc Uganda mà nhiều bộ lạc khác ở Australia cũng cho rằng trinh tiết là thứ xấu xa và cần tránh xa. Trong đêm tân hôn, máu của cô gái còn trinh như thuốc độc ảnh hưởng lớn đến các thế hệ sau. Vì thế họ phải phá trinh trước khi lấy chồng.

    Bộ tộc ăn nằm với các cô gái còn trinh tiết là điều sỉ nhục
    Bộ tộc ăn nằm với các cô gái còn trinh tiết là điều sỉ nhục



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy