Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 2
Trong xã hội xưa, các nhà Nho thường dùng thơ ca như một “phương tiện” để nói chí, tỏ lòng, có rất ít những tác phẩm viết về cuộc sống sinh hoạt với những vấn đề “vặt vãnh” thường ngày. Thơ ca trung đại viết về người phụ nữ đã ít, viết về người vợ càng hiếm hoi hơn. “Thương vợ” của Trần Tế Xương là một trong số rất ít những bài thơ hiếm hoi ấy, nhà thơ không chỉ ca ngợi công lao, tấm lòng của vợ mà còn viết ngay khi vợ còn sống. Đây là một điều đặc biệt rất hiếm gặp trong thi ca, bởi các nhà văn, nhà thơ xưa thường viết về vợ khi người bạn đời kết tóc trăm năm của mình đã từ giã cõi đời. Thương vợ là bài thơ nổi tiếng nhất mà Tú Xương viết về vợ, đây cũng là tình yêu thương, sự trân trọng mà nhà thơ muốn gửi gắm tới người vợ của mình.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Ngay trong những câu thơ đầu tiên, nhà thơ Tú Xương đã để bà Tú xuất hiện trong một hoàn cảnh đặc biệt. Bà Tú hiện lên trong công việc mưu sinh vất vả cùng gánh nặng gia đình “nuôi đủ năm con với một chồng”. “Quanh năm” gợi ra khoảng thời gian dài đằng đẵng, bà Tú làm công việc buôn bán mưu sinh quanh năm suốt tháng, không có lấy một ngày ngơi nghỉ. “Mom sông” phần đất bồi ven sông chông chênh, đầy hiểm nguy thường trực, đây cũng là nơi bà Tú làm ăn buôn bán. Công việc vất vả là vậy, cực nhọc hiểm nguy là vậy nhưng bà Tú vẫn cần mẫn làm việc bởi trên vai bà là gánh nặng “năm con với một chồng”. Câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng” nghe qua như một lời ví von tếu táo nhưng lại ẩn chứa nỗi xót xa khó giấu. Tú Xương đã tự coi mình là gánh nặng, không những thế ông còn đặt lên bàn cân để thấy một mình mình có sức “nặng” bằng năm đứa con.
Nếu hai câu thơ đầu nhà thơ chú ý khắc họa thời gian, không gian làm việc và những gánh nặng của bà Tú thì trong hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ tập trung miêu tả nỗi cơ cực, lam lũ của bà Tú:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Trong hai câu thực, nhà thơ Tế Xương đã đảo vị ngữ “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu để diễn tả nỗi cực nhọc, sự đơn độc của bà Tú trong công việc mưu sinh. “Lặn lội thân cò” gợi ra sự vất vả, lam lũ, đáng thương của bà Tú. Trong không gian vắng vẻ, luôn thường trực những hiểm nguy “quãng vắng”, bà Tú vẫn kiên cường bươn trải để nuôi sống cả gia đình. “Eo sèo” gợi ra khung cảnh xô bồ, chen lấn, xô đẩy của người mua, kẻ bán. Hai câu thơ đã tái hiện sống động mà cũng đầy xót xa nỗi vất vả, cực nhọc của bà Tú, qua đó còn thể hiện sự thấu hiểu, đồng cảm của ông Tú dành cho người vợ tào khang của mình.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Ở đây, nhà thơ Tú Xương đã mượn thành ngữ dân gian để nói về cuộc đời của bà Tú. “Một duyên hai nợ” gợi ra nỗi vất vả, sự éo le trong số phận của bà Tú. Bà chỉ có một cái “duyên” nhưng lại phải chịu đến đến hai “cái nợ” khi trở thành vợ của ông Tú. Đôi vai gầy yếu của bà phải gánh gồng tất cả những công việc gia đình và cả những lo toan của cuộc sống, bà không chỉ phải lo cho con mà còn phải gánh theo chồng. Cuộc sống hẩm hiu, thiệt thòi là vậy nhưng bà Tú không hề oán thán mà vẫn chấp nhận “âu đành phận”, bà âm thầm gánh vác tất cả, âm thầm hi sinh vì chồng, vì con. Dù có phải trải qua bao sóng gió dãi dầu “năm nắng mười mưa” thì bà vẫn không ngại khó, ngại khổ “dám quản công”.
Qua việc sử dụng linh hoạt phép đối kết hợp vận dụng thành ngữ dân gian, Tú Xương đã hoàn thiện bức chân dung đẹp đẽ, đáng trân trọng của bà Tú: Chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh. Câu thơ còn như một lời tự trách của nhà thơ với sự “vô dụng”, bất lực của bản thân khi chứng kiến sự vất vả của vợ mà không thể làm gì.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Hai câu thơ cuối như một lời trách móc, một lời chửi với “thói đời”, với sự bất lực của bản thân. “Thói đời” ở đây có thể hiểu là xã hội phong kiến nhiều bất công đã đẩy con người vào cảnh bần cùng. Không chỉ chửi thói đời, ông còn chửi chính bàn thân mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Bản thân ông là một người chồng, là trụ cột gia đình nhưng vì theo đuổi khát vọng công danh mà vô tình tạo nên bao nỗi cơ cực cho vợ. Câu thơ thể hiện rõ nét sự xót xa, bất lực của Tế Xương. Thế nhưng, qua việc trân trọng công lao của vợ, tự lên án sự “hờ hững” của bản thân ta lại thấy được nhân cách đáng trân trọng của nhà thơ, đó là tình thương sâu sắc với vợ, sự tự ý thức về bản thân.
Có thể nói Thương vợ là lời tri ân sâu sắc mà Tú Xương dành cho vợ. Bài thơ không chỉ dựng lên bức chân dung bà Tú, một người đàn bà chịu thương chịu khó, yêu thương chồng con, giàu đức hi sinh mà còn thể hiện tình thương vợ, nhân cách cao đẹp của nhà thơ.