Bài văn phân tích "Cảm hoài" của Đặng Dung số 7
Đặng Dung là một danh tướng dưới thời Hậu Trần, khi còn trẻ ông đã lập được rất nhiều chiến công trong cuộc đấu tranh chống giặc Minh. Về sau Đặng Dung bị giắc bắt, không chịu khuất phục trước kẻ thù, trên đường đi ông đã nhảy xuống sông để tự vẫn. Bài thơ Cảm hoài là bài thơ tiêu biểu của ông viết về những tâm sự của bản thân về khát vọng lập công và sự day dứt trong thực tại.
Mở đầu bài thơ, tác giả Đặng Dung đã gợi mở khung cảnh đất nước ta vào những năm 1407 – 1409 khi quân Minh kéo vào nước ta:
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
(Dịch: Việc đời bối rỗi tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Trước thế sự rối loạn, giặc Minh tràn vào Đại Việt với âm mưu xâm lược thâm độc, tác giả Đặng Hoài đã thể hiện niềm đau xót khôn nguôi qua tiếng than đầy bất lực, thế sự căng thẳng, người anh hùng sôi sục khát khao lập công, cứu nước nhưng tuổi già đến, ước nguyện chẳng thể nào thực hiện được. Đây thực sự là một bi kịch đầy đau khổ đối với một người anh hùng như Đặng Dung. “Vô cùng thiên địa nhập hòa ca” thể hiện được thái độ của nhà thơ trước tình thế đảo điên của thời cuộc. Câu thơ thứ nhất và thứ hai tuy có sự đối lập về ý nghĩa nhưng đều góp phần thể hiện được tâm trạng của nhà thơ.
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
( Dịch: Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay )
“Đồ điếu” chỉ người mổ thịt và người câu cá. Câu thơ có ý nghĩa, nếu như gặp thời thì những người câu cá cũng có thể đạt được thành công dễ dàng, câu thơ cũng gợi cho chúng ta liên tưởng đến một nhân vật trong lịch sử Trung Hoa, đó là Phàn Khoái, từng làm nghề bán thịt chó, Hàn Tín thuở hang vi cũng từng câu cá nhưng cuối cùng đi theo Lưu Bang và lập nên được sự nghiệp lớn. Đối với những người thất thế thì lại phải chịu nhiều ẩn hận. Đây là nỗi đau của người anh hùng thất thế khi thời thế đổi xoay.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
(Dịch:
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây. )
Hai câu luận lại hướng đến hình tượng mang tính kì vĩ, tráng lệ. Trong cuộc đời của mình, Đặng Dung luôn đặt trách nhiệm với đất nước lên trên hết, ông không quản những gian khó mà xông pha trận mạc, phò vua, cứu nước. Những hình ảnh “phù địa trục”, “vãn thiên hà” là những hình ảnh mang tính kì vĩ, lớn lao, thể hiện được khát vọng của người anh hùng trong thời loạn. Hai câu thơ cuối đối nhau tạo nên giọng điệu hào sảng đầy ấn tượng.
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”
(Dịch: Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.)
Hai câu thơ cuối đã gợi ra hình ảnh của người anh hùng mài gươm dưới ánh trăng sáng, trải qua nhiều năm tháng thì mái đầu cũng đã bạc dần, câu thơ gợi ra màu sắc hào hùng , bi tráng. Tuy tuổi đã già nhưng việc nước chưa hoàn thành nên nhà thơ vẫn nặng trĩu những trăn trở, suy tư. “Long Tuyền” ở đây là thanh gươm báu dùng để giết giặc, lập công, mang lại độc lập, hòa bình cho dân tộc. Hai câu thơ cuối của bài Cảm hoài được coi là hai câu thơ đẹp nhất, thể hiện rõ nét hào khí Đông A dưới thời nhà Trần.
Qua bài thơ ta có thể thấy được Đặng Dung là một người anh hùng luôn nặng lòng với nước,với dân, bài thơ thấm được được tình yêu nước, sự day dứt, đau khổ của người anh hùng lỡ bước. Nguyễn Trãi trong bài thơ Quan Hải cũng đã gặp gỡ với tư tưởng của Đặng Dung:
“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỉ thiên niên”
Dịch:
Họa phúc có manh mối, đâu phải một ngày
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau”
Như vậy, ta có thể thấy Cảm hoài là bài ca về tình yêu nước đầy bi tráng của người anh hùng cả đời dâng hiến công sức cho dân cho nước.