Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong "Chiếc thuyền ngoài xa" số 2
Sau khi thống nhất đất nước, nền văn học Việt Nam có nhiều đổi mới, các tác giả bắt đầu chú ý và chuyển sang viết về các đề tài đạo đức thế sự, nhân vật trung tâm không còn là những người hùng cách mạng, những con người lý tưởng mang vẻ đẹp của cộng đồng như Việt hay Tnú của Nguyễn Thi và Nguyên Ngọc. Mà nhân vật trung tâm trong các tác phẩm giai đoạn sau năm 75 lại là những con người đời thường, những con người không hoàn toàn lý tưởng mà trong họ có sự đan xen cả rồng phượng và rắn rết. Cũng từ đó tác giả chú tâm vào khai thác những diễn biến đời sống nội tâm của họ để mang đến cho người đọc những cách nhìn nhận mới mẻ trên cả phương diện nhân đạo lẫn hiện thực cuộc đời. Nguyễn Minh châu chính là một trong các tác giả như thế, ông được đánh giá là người mở đường tinh anh và tài hoa của nền văn học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chính là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu giai đoạn này, với một cách nhìn nhận và khai thác nhân vật mới mẻ, góc nhìn đi từ tình huống truyện độc đáo, tác giả đã đem đến cho người đọc những giá trị nhân đạo sâu sắc mà ông gửi gắm trong tác phẩm, trong từng nhân vật của mình.
Chiếc thuyền ngoài xa được dựng lên từ hai tình huống truyện độc đáo, câu chuyện bắt đầu với việc nhiếp ảnh gia Phùng sau nhiều ngày “mai phục” trên bãi biển, cuối cùng cũng chộp được một cảnh “đắt” trời cho, một chiếc thuyền lưới vó xuyên qua màn sương mù trắng như sữa hòa lẫn với cái ánh bình minh hồng hồng đang lướt nhẹ vào bờ. Đối với Phùng đó là vẻ đẹp toàn thiện, toàn mỹ, là chân lý trong ngần của tâm hồn, là đạo đức, và muôn vàn cảm xúc xuýt xoa tràn ngập trong trái tim người nghệ sĩ khi anh bấm lia lia một lúc hết phần tư cuốn phim. Thế nhưng một bức ảnh tuyệt đẹp có thể được hàng triệu người trầm trồ, khen phục ấy hóa ra đằng sau nó lại chứa đựng cái vẻ xấu xa, ghê tởm nhất của con người, một người đàn ông cục súc vũ phu đánh đập tàn nhẫn người vợ xấu xí, thô kệch của mình như đánh một con vật, miệng hắn ta liên tục thốt ra những câu đay nghiến, độc ác, còn người đàn bà chẳng chẳng chút phản ứng, im lặng, nhẫn nhục chịu đựng.
Phùng là người không chịu được cái sự bất công đến nhường ấy, anh yêu cái đẹp, cái hoàn mỹ và anh nghĩ cuộc sống vốn cũng nên như thế. Thành thử Phùng muốn giúp đỡ người đàn bà bất hạnh kia thoát khỏi gã chồng vũ phu, với sự giúp đỡ của Đẩu - chánh án tòa án huyện, bằng một vụ ly hôn, với mong ước chị ta sẽ có một khởi đầu mới tốt đẹp. Ôi! Nhưng mọi chuyện chẳng như những gì mà Đẩu và Phùng nghĩ, người đàn bà kia chẳng những không bỏ quách lão chồng vũ phu của chị, mà trái lại sống chết không chịu ly hôn, điều ấy khiến cả hai người thấy thật khó hiểu (mà có lẽ còn có cả chút bực bội, bất lực). Thế nhưng chỉ đến khi nghe người đàn bà làng chài tâm sự bằng chất giọng từng trải, thấm thía thì Phùng và Đẩu lại mới vỡ ra được nhiều điều. Những điều ấy đã làm nên giá trị nhân đạo quý giá cho tác phẩm.
Trước hết thông qua tình huống truyện trên bãi biển tác giả Nguyễn Minh Châu muốn nêu lên những mặt tối trong xã hội sau giải phóng, đó không còn là đau đớn của chiến tranh, nỗi đau thân phận bị áp bức nữa mà đó chính là nỗi đau của những người phụ nữ sống trong cảnh bạo lực gia đình. Tác giả gay gắt lên án hành động vũ phu, tàn ác của của gã đàn ông với vợ mình thông qua thái độ và hành động vứt chiếc máy ảnh chạy đến ngăn cản của nhiếp ảnh Phùng, hay tấm lòng tốt muốn giúp đỡ người đàn bà làng chài thoát khỏi cuộc sống hôn nhân đáng sợ của cả Phùng và Đẩu. Đặc biệt Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở việc lên án, mà ông còn đi sâu vào nhấn mạnh hậu quả, hệ lụy của nó thông qua chi tiết thằng Phác chạy ra đỡ cho mẹ nó, đánh lại cha, thậm chí nó từng có ý định giết cha để bảo vệ mẹ, khiến người đàn bà làng chài phải gửi nó lên nhà ngoại để tránh những việc đáng tiếc xảy ra. Đó chính là khao khát đấu tranh cho cái thiện mà Nguyễn Minh Châu hằng theo đuổi.
Giá trị nhân đạo thứ hai nữa của tác phẩm đó chính là tấm lòng thương cảm, thấu hiểu sâu sắc cho số phận và cuộc đời của những con người vùng biển, những con người có cuộc sống luôn bấp bênh, lam lũ, vất vả. Nguyễn Minh Châu đi từ cảnh người đàn bà làng chài bị chồng bạo hành, đến việc chị kể về những nỗi vất vả của một người phụ nữ với gia đình đông con, mà đứa nào cũng còn nhỏ dại, kể về số phận bất hạnh khi còn trẻ của mình, hay niềm hạnh phúc đơn giản nhỏ nhoi là được nhìn đàn con ăn no bụng,... Để rồi từ đó cả Phùng, Đẩu và độc giả như vỡ ra một cái gì đó rằng cuộc đời này không phải ta chỉ nhìn bề ngoài rồi được cho mình cái quyền tùy tiện phán xét hay quyết định, mà bên trong nó còn biết bao nhiêu là bể dâu, khúc mắc mà chỉ có người trong cuộc mới thực sự có thể hiểu và quyết định. Cái nghịch lý của cuộc đời nó lại chứa đựng trong mình những cái lý lẽ mà ta không thể ngờ tới.
Bên cạnh đó có thể thấy rằng ngoài việc thông cảm thấu hiểu cho người đàn bà làng chài thì có lẽ Nguyễn Minh Châu cũng phần nào đó thương cảm cho một kiếp người như gã chồng, thông qua lời bộc bạch của chị vợ trên toà án. Một người vốn dĩ hiền lành, chăm chỉ làm ăn nhưng sau ngần ấy năm, cái gì đã khiến anh ta trở nên cục súc, độc ác đến vậy, chị vợ nói đúng, cái nghèo, cái khổ cứ đeo bám mãi, với cái món xương rồng luộc chấm muối thì cỡ nào người ta cũng chẳng còn bình tĩnh nổi nữa. Như vậy từ khía cạnh của người chồng, cùng với cái cảnh bất hạnh của người đàn bà làng chài ta lại nhận ra thêm một giá trị nhân đạo mà Nguyễn Minh Châu muốn nói đến, đó là tác giả đã tố cáo những hậu quả mà 2 cuộc chiến tranh kéo dài gần 120 năm đã để lại trên đất nước ta bao gồm: Sự đói nghèo, lạc hậu, sự thiếu hụt của tri thức, giáo dục (sự vũ phu, tàn ác của người chồng), kém hiểu biết về kế hoạch hóa gia đình (người đàn bà làng chài và hơn chục đứa con),...
Một giá trị nhân đạo thứ ba nữa mà tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đem đến cho người đọc chính là vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà làng chài. Việc Nguyễn Minh Châu khắc họa một nhân vật với ấn tượng ban đầu là sự thô kệch, xấu xí, cuộc sống lam lũ, vất vả, cuộc đời bất hạnh và sự cố chấp không chịu bỏ người chồng vũ phu. Thế nhưng sau những lời tâm sự trải đời và thấm thía của chị người ta lại mới phát hiện ra đằng sau lớp vở xấu xí của con người kia là biết bao nhiêu vẻ đẹp quý giá. Điều ấy có gì đó tương quan với sự kiện cảnh “đắt” trời cho mà Phùng nhận định là toàn thiện, toàn mỹ lại chứa đựng đằng sau đó những sự tàn ác và xấu xa nhất của con người với cảnh bạo hành gia đình tàn bạo.
Ở người đàn bà làng chài hiện lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, sâu nặng, bấy nhiêu đau đớn, nhịn nhục của chị tất cả cũng chỉ dồn lại dành cho những đứa con còn đang tuổi ăn tuổi lớn. Chị không chỉ muốn chúng có cơm ăn, mà còn muốn con mình có một gia đình hoàn chỉnh, đầy đủ cả bố lẫn mẹ. Chị cũng không muốn chúng phải thấy những cảnh tàn ác mà bố chúng nó đã gây ra cho mẹ, không phải chỉ để bảo vệ lòng tự trọng của một con người, mà hơn hết chị muốn con mình được lớn lên với một tâm hồn trong sáng, khỏe mạnh. Bên cạnh đó, khi người đàn bà làng chài nói hạnh phúc của mình chỉ là việc gia đình quây quần, và những đứa con được ăn no, người ta không chỉ nhìn thấy ở đó sự hy sinh, tình yêu thương vô bờ bến với các con mà nó còn phản ánh những khát khao hạnh phúc bình dị của những con người miền biển. Dẫu cuộc sống còn nhiều khó khăn bất hạnh, thế nhưng người đàn bà làng chài vẫn luôn mang trong mình niềm hy vọng, ý chí và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt.
Cuối cùng tổng kết lại giá trị nhân đạo của Chiếc thuyền ngoài xa chỉ nằm gọn trong một chữ “thiện”. Bằng sự tự ý thức của nhiếp ảnh gia Phùng - cũng là người phát ngôn cho Nguyễn Minh Châu, tác giả đi từ chỗ nhận biết cái đẹp chỉ thông qua sự hoàn mỹ, toàn bích đến không thực đến cảnh nhìn thấy người đàn bà làng chài bị chồng đánh và cuối cùng là sự vỡ lẽ ra rằng cuộc đời này có những cái tưởng là nghịch lý nhưng lại chứa đựng bên trong đó những cái có lý đến không ngờ. Từ đó người nghệ sĩ đã có cơ hội nhận ra để rồi đấu tranh và tự hoàn thiện cho quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể thấy rằng sự đức độ, hy sinh của người đàn bà làng chài, tấm lòng thương cảm, thấu hiểu hay giá trị tố cáo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu chính là chữ “thiện”, đã góp phần làm hoàn chỉnh quan điểm chân-thiện-mỹ mà nhà văn hằng theo đuổi trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình.