Bài văn phân tích tác phẩm "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân số 6
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông là cây bút tài hoa uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, có tình cảm thiết tha với cuộc đời và truyền thống dân tộc. Nguyễn Tuân suốt đời đi tìm cái đẹp và đem ngòi bút phục vụ cho cái đẹp đích thực có trong cuộc đời này. Tùy bút Sông Đà thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật ấy của Nguyễn Tuân.
Hình tượng con sông Đà với nhưng nét đối lập gay gắt: Tác giả nhân hoá con sông Đà: như một sinh thể có hồn, có hoạt động, có tâm trạng và có hai nét tính cách đối lập. Hình ảnh một con sông Đà hung bạo: Cái đáng sợ nhất của sông đà là những ghềnh thác. Sông nào ở thượng nguồn cũng có ghềnh thác nhưng thác nước của sông Đà qur thạt kì quái và đáng sợ bậc nhất. Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ miêu tả từng cái thác một như thể điểm mặt chỉ tên chúng.
Trước hết là cái ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô song, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Nó bình thường như những cái thác khác.
Đâu chỉ là dòng nước. trong nó còn có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn thật đáng sợ. Những cái giếng sâu nước ác ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Nó nguy hiểm đến mức không có thuyền bè nào dám lại gần cái hút nước ấy. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Tiếng nước réo gầm là âm thanh ấn tượng nhất của núi rừng hoang vu Tây Bắc. Còn xa lắm mới đến cái thác dưới nhưng người lái đò đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước được hình tượng hóa nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Bọt nước tung trắng xóa cả quảng sông dưới. Rồi đá bày binh bố trân dàn hàng đàn ra chỉ chực vỗ nát hoặc nuốt chửng những con thuyền qua lại nơi đây.
Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Cách miêu tả chân thực, có chút phóng đại với lối liên tưởng tài tình gây ấn tượng mạnh mẽ về độ cao hun hút. Với thác nước và thành vách đá, một con sông đầy đá nổi, đá chìm và thác dữ khiến sông Đà lộ rõ tâm địa một kẻ thù số một. Với nghệ thuật miêu tả tài hoa, ngôn ngữ tạo hình đặc sắc, cấu trúc trùng điệp, giọng văn mạnh mẽ, vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học như địa lí, điện ảnh để làm nên hàng loạt so sánh, liên tưởng kì lạ, bất ngờ, Nguyễn Tuân đã tái tạo lại hình tượng con sông Đà hung bạo, dữ dội và đầy hiểm trở trên nhiều dáng vẻ.
Bên trong sự hung bạo đó, con sông Đà cũng nổi bật lên như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và đất nước. Nguyễn Tuân là một bậc kì tài trong việc sử dụng ngôn từ, ông đã tận dụng mọi cơ hội có thể phát huy đến tận cùng thế mạnh của mình, để buộc sự hung tợn và kì vĩ của sông đà phải sống dạy, phải hịên hình và phải gào thét lên trên những hàng chữ viết.
Nguyễn Tuân đã làm cho những trang văn của mình lung linh lên nhờ những vẻ đẹp mà ông mượn ở các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên hàng loạt so sánh, liên tưởng, tưởng tượng rất kì lạ, không thể nào đoán trước: Người đọc phải ngạc nhiên khi nghe “tiếng nước ở đây thở và kêu như cửa cống trái bị sặc”, lại “ặc ặc lên như vừa mới rót dầu sôi vào”.
Sự tưởng tượng xuất thần của nhà văn về cú lia ngược chiếc máy quay “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh với một áng thuỷ tinh khối đúc dày…sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Kinh ngạc và thán phục hơn nữa khi ông dám can đảm dùng lửa để tả nước, lấy hình ảnh “ô tô sang số ấn ga” trên “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” để ví von với cách chèo thuyền. Để có được những hình ảnh hấp dẫn như vậy, chứng tỏ nhà văn đã không quản ngại công phu quan sát,tìm hiểu kĩ càng để nhận ra thật đúng sự hung bạo đó.
Hình ảnh một con sông Đà trữ tình, thơ mộng: Thế nhưng, bên cạnh một con sông Đà hung bạo, dữ dằn ấy, còn có một con sông Đà hết sức đẹp đẽ, thơ mộng. Đó là một phát hiện lớn của Nguyễn Tuân về con sông của đất nước. Ông biết nhìn nó ở mọi góc độ, mọi khía cạnh, mọi thời điểm để tìm kiếm vẻ đẹp ẩn chứa trong nó rất khó nhận thấy hoặc không có cơ hội nhận thấy. Như ông viết trong tác phẩm: “Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”.
Vẻ đẹp tơ mộng và trữ tình của sông Đà phải ở một độ cao đặc biệt, một điểm nhìn đặc biệt mới thấy rõ hết. Phải ở trên cao mà nhìn xuống. Phải vượt lên trên cái hung dữ của nó để thấy nó cũng hiền hòa, cũng duyên dáng để mà yêu mến và say mê nó. Phải từ trên cao mới thấy: “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Đó là vẻ đẹp nét đẹp duyên dáng, mềm mại thơ mộng mà đất trời đã phú cho dòng sông kì vĩ ấy. Và phải bằng ánh mắt nhìn của người hết lòng yêu mới nó mới thấy nó đẹp kì điệu đến thế.
Phải nhìn nhiều lần, nhiều thời điểm và nhìn kĩ lắm, Nguyễn Tuân mới phát hiện: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Cách so sánh về màu sắc, làm cho dòng sông hiện rõ vẻ đẹp riêng của mỗi mùa.
Có lẽ, Nguyễn Tuân phải đi lại và ngắm nhìn rất nhiều lần mới kết luận: “con Sông Đà gợi cảm” như một nhận định không thẻ sai được. Ông còn nói: “đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách“. Ông không hề biện minh cho cách nhìn của mình. Ông cứ nhìn thẳng, nói thật những gì ông đã thấy, đã cảm nhận được.
Sông Đà dưới mắt nhìn của Nguyễn Tuân lóng lánh ánh bạc phản chiếu. Cái miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi. Rồi gặp lại sông Đà thấy đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, lưu luyến mãi không thôi. Đó là toàn bộ sông Đà khi nhìn từ trên cao. Còn khi đi trên thuyền, sông Đà hiện ra gần gũi và thân mật. Lúc thuyền đến quảng êm mới thấy “cảnh ven sông ở đây lặng tờ” chứ không ồn ào nữa.
Rồi “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” hiện ra trước mắt. Tiếp đến “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” thật yên bình như chốn này chưa từng có dấu chân người đến. Cuối cùng, Tác giả khẳng định chắc chắn: “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Biện pháp so sánh có sức khêu gợi sâu xa khắc hoạ vẻ đẹp hoang sơ và dấu ấn văn hoá ngàn xưa của cha ông. Dường như có một dòng chảy bất tận từ ngàn năm cổ tích xuyên suốt về tới tận ngày nay. Lời văn Nguyễn Tuân cổ kính, đĩnh đạc nghiêm trang và hiện đại là thế.
Với những so sánh độc đáo gợi tả, gợi cảm, ấn tượng, giọng văn nhẹ nhàng, câu văn trải dài,mềm mại, âm điệu êm đềm, hình ảnh con sông hiện lên thật trữ tình và thơ mộng. Thành công đó chính là kết quả của những công phu tìm tòi khó nhọc, công sức lao động nghiêm túc, cần cù, kiên nhẫn của nhà văn.
Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp, kì vĩ, hào hùng, trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, ca ngợi cái chất vàng mười của thiên nhiên. Qua đó bộc lộ tình yêu tha thiết, say đắm của nhà văn đối với quê hương đất nước nói chung và thiên nhiên Tây Bắc nói riêng. Từng câu văn vừa có đường nét, hình khối và màu sắc, vừa có sự so sánh và cảm nhận, lại như hát lên trong giọng điệu.
Lúc đầu âm vực cao, trường độ nhanh, càng về cuối nó như hạ thấp dần và chậm lại, kéo dài ra, lan toả trong không gian bất tận. Không phải cây bút văn xuôi nào cũng làm được như Nguyễn Tuân, tạo dựng nên cả một không gian trữ tình đủ sức khiến người đọc say đắm, ngây ngất, để thêm yêu cuộc đời này đến thế. Nhà văn đã có một sự chuyển đổi trong cách viết của mình khi miêu tả hai nét tính cách đối lập của con sông này. Đó cũng là mục đích của nhà văn dựng lại hình ảnh con sông đà hùng vĩ, thơ mộng trữ tình.
Không chỉ chú trọng tái hiện hình ảnh dòng sông Đà, Nguyễn Tuân còn miêu tả kĩ lưỡng hình ảnh người lái đò già thường qua lại trên quãng sông ấy trong trận chiến kịch liệt với dòng sông. Ông lái đò hiện lên với ngoại hình thạt ấn tượng. Hai tay ông dài lêu nghêu như cái sào. hai chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp một cái gì đó vô hình. Rõ ràng, công việc hàng ngày đã tạc khác vào hình dáng của ông đén nỗi không thể rời bỏ hoặc thay đổi được. Hình ảnh ấy cũng là hình ảnh đặc trưng của những người xuôi ngược đò hàng như ông ở vùng đất dữ dội này.
Ông lái đò còn có nhãn giới phi thường. Nhìn mặt nước là ông biết ngay nó đang ẩn giấu cái gì ở bên dưới. Nó không thể nào lừa ông được. Tiếng nói của ông cũng ào ào lũ. Đầu quắc thước như môt người bước ra từ trong sử thi. Trên ngực ông có một vết sẹo lớn mà ông rất tự hào về nó. Cuộc sống trên sông nước in dấu lên từng chi tiết trên cơ thể ông. Những gian nan, cực nhọc và hiểm nguy in hằn lên mồn một trong tâm trí ông.
Hàng chục năm xuôi ngược trên sông Đà, ông đò vẫn “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước, của tất cả những con thác hiểm trở” nên ông rất tự tin. Ông còn là người tài nghệ leo ghềnh, vượt thác. Qua miêu tả của Nguyễn Tuân, ông lái đò hiện ra giống như một hiệp sĩ của núi rừng. Cả tư thế và tâm thế đều đứng trên hoàn cảnh. Với lối miêu tả ấy, người đọc nhận ra ông lái đò có đủ sức mạnh và dũng khí để khuất phục và thuần hóa con sông dữ tợn và bướng bỉnh kia.
Hình ảnh ông lái đò hiện lên trực tiếp qua lời giới thiệu của tác giả trong cuộc chiến sinh tử với dòng sông Đà. Ông đã từng trải trăm lần chứ không phải là lần đầu thử sức với dòng sông. Ông rèn luyện trí nhớ cao độ và không cho phép mình sai lầm. Trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc cả dấu chấm. Ông cũng không thích xuôi đò những đoạn nước êm. Những gì dữ dội và hiểm nguy luôn làm ông hứng thú.
Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên chỉ “để dành sự sống từ tay nó về tay mình” Trong cuộc chiến ấy, ông nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này và nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Dòng sông ấy dù có ẩn giấu cái gì trong mình nó đi chăng nữa ông đều thấu rõ hết.
Bằng việc khắc tạc tỉ mỉ, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên bức chân dung ông lái đò từng trải, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp, một con người có trí nhớ cao độ. Cách so sánh hấp dẫn thể hiện tài năng quan sát và sự am hiểu đối tượng của ông lái đò cùng sự tự tin, bình thản nhưng không hề tự kiêu.
Qua miêu tả của Nguyễn Tuân, ta có thể thấy, sự đối lập giữa ông lái đò và dòng sông Đà là quá lớn. Ông lái đò với con người nhỏ bé, không có phép màu, không có vũ khí. Ông chỉ có một cán chèo mỏng manh, đứng trên con đò đơn độc và lao đi trên dòng nước đầy cạm bẫy. Còn thiên nhiên Tây Bắc quá lớn lao. Dòng nước dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng hàng thần thánh. Nó có đủ mọi thứ vũ khí, mưu chước và binh pháp vô cùng lợi hại.
Nếu nhìn vào sự chênh lệch đó, quả thực, ông lái đò đang phải đối diện với một sức mạnh thần thánh, không có cơ hội nào để chiến thắng. Đó cũng là điều mà Nguyễn Tuân muốn gợi ra trong tâm trí người đọc để sau đó ông bất ngờ phô bày sự lợi hại phi thường của lái đò già dặn ấy trong cuộc vượt thác diễn ra ngay sau đó.
Bắt đầu cuộc vượt thác, tác giả có đoạn miêu tả con thác. Đầu tiên là tiếng thác gầm réo với mọi âm điệu ghê rợn. Điều đó không khỏi khiến cho những đầu óc tỉnh táo và quả cảm nhất cảm thấy run sợ: “còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, thác nước sông Đà như một con quái thú cổ xưa hung tợn và kì quái. Nó chỉ chực nuốt chửng tát cả những gì dám mon men lại gần nó. Nó đói khát cùng cực và không gì có thể làm cho nó thôi dữ dội. Càng đến gần càng thấy kinh hãi. Dòng sông không chỉ làm ra vẻ đáng sợ mà nó thực sự chứa đựng những nguy hiểm chết người.
Ngầm sâu dưới những con “sóng bọt đã trắng xoá” là “cả một chân trời đá”. Không chỉ đá ngầm, đá tảng mà chúng còn “mai phục hết trong lòng sông” . Mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy đâm thủng, xé nát những con thuyền gỗ mỏng manh.
Hình ảnh những hòn đá tinh quái hiện lên trong rất ngỗ ngược và khiêu khích. Nhìn vào, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Chúng đứng ngồi hay nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé. Bởi cái trật tự bề bộn và tùy tiện ấy, chúng làm cho mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xoá càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó.
Thế nhưng không phải vậy. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với một trật tự nhất định. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá. Hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa. Rồi đến tuyến hai nước sóng luồng giữa vật thuyền.
Thuyền vào đây rồi khó mà quay trở lại. Con nước cứ đẩy thuyền đi tới, mà quật, mà lắc, mà thúc, tránh bên nào cũng gặp đá nhọn, đá sắc ở tuyến ba như một pháo đài nổi sẵn sàng tiêu diệt con thuyền ngay ở chân thác. Bằng nhãn quan kì của, ông lái đò phân tích thạch trận, nhìn rõ cửa sinh, cửa tử mà tiến tới. Mỗi lần vượt thác là một trận chiến sinh tử thực sự. Sơ hở một cái là nguy hiểm ập đến ngay lập tức. Con huyền tiến vào. Trận chiến chính thức bắt đầu.
Vòng 1: Con thác dữ đón con thuyền hết sức long trọng bằng thạch trân đá và nước. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hớp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Chúng kiêu ngạo, chế nhạo, thách thức người lái đò. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến.
Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Thế nhưng điều ấy không làm ông lái đò quan tâm. Chúng chỉ là bọn lính nhằm gây mất tập trung mà thôi. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình.
Con thuyền lắc lư vụt tới. Sóng nước như thể quân liều mạng cứ thức, giật, lắc hòng vật ngửa con thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Không những thế, nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Chúng không những hung tợn mà còn hết sức thâm hiểm, không chừa bất kì mưu chước hay đòn đánh nào. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò.
Nhưng ông đò cố nén vết thương, hô rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Trận thứ nhất mở màn thôi mà đã quyết liệt đến kinh hoàng. Kẻ tầm thường thật không thể vượt qua được con thuyền sớm bị xé nát tại đây. Thế nhưng, với tài năng và bản lĩnh của ông lái đò, con thuyền lướt tới vô sự. Người lái đò hiện lên như một viên tướng tả xung, hữu đột, bình tĩnh, gan góc và tự tin, chiến đấu và chiến thắng.
Vòng 2: Vừa hết vòng một là đến ngay vòng hai. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ở vòng vây này là cả một thạch trận có tổ chức vô cùng biến ảo. Mỗi hòn đá là một mối hiểm ghê gớm. Chúng xoay chuyển chứ không hề nằm yên và được che phủ, hỗ trợ bởi mặt nước nên càng thêm lợi hại.
Thế nhưng, ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Nếu ở vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông thì vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Con thuyền không thể lùi lại vì bất cứ lí do gì. Ông lái nhận định “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Không thắng nổi con thuyền ở vòng một, dòng sông tức giận vô cùng. Chúng hồng học tế mạnh đưởi theo. Ông lái mặc kệ chúng. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Tuy cửa sinh lập lờ và biến ảo nhưng với kinh nghiệm bao năm vượt thác của mình, ong cảm nhận nó đang nằm ở hướng ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này. Chúng quá quen thuộc vì ông gặp chúng từng ngày.
Đến đay, ông lái thể hiện tài năng và sức mạnh chinh phục của mình. Đứa nào ở xa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên. Đứa nào sáp lại gần thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Bọn đá không làm gì được ông trở mặt nhăn nhó, gườm ghe thách thức.
Cuối cùng, những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Con thuyền vượt qua vòng hai bình an. Chỉ là vượt qua vùng đá cạn nhưng đó lại là vùng nguy hiểm nhất vì đá ẩn mình trong nước. Không có kinh nghiệm, không từng trải, từng nhiều lần bị đánh trúng, đánh trúng thì không thể thuộc lòng dòng sông đến thế.
Với trí tưởng tượng và vốn từ phong phú đặc biệt là kiến thức về quân sự: cách bài binh bố trận, Nguyễn Tuân tạo dựng được đoạn văn mang đầy không khí trận mạc, sinh động.
Vòng 3: Còn một trùng vây thứ ba nữa. Vòng ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Nhưng ông lái biết cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thế nhưng, không đơn giản đến thế. Chúng đâu để người lái đò đễ tiến vào nơi ấy. Chúng tạo ra nhiều của hơn nữa, dụ dỗ con thuyền hết mức.
Không để bị chúng dụ dỗ, ông lái điều khiển con thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Con thuyền thoát ra ngoài. Ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Vòng ba này chỉ diễn ra có mấy giây đồng hồ. Đến đây rồi mà sơ hở thì cũng thất bại như thuyền. Thất bại ở cửa nào trong cuộc vượt thác ấy đều dẫn đến hậu quả ghê gớm. Thế nhưng, nếu thất bại ở cửa ba lại là một điều nhục nhã đối với bất kì tay đò nào.
Một hệ thống từ ngữ tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, câu văn ngắt ra nhiều để diễn tả các động tác trong cùng một khoảng thời gian của người lái đò. Nguyễn Tuân như đã vắt hết sinh lực của mình để diễn đạt thành công tính chất mạo hiểm và tinh thần dũng cảm, ý chí thuần thục, giỏi giang trong nghề leo ghềnh,vượt thác của ông lái dò. Ông lái đò chính biểu tượng tài hoa của người nghệ sĩ như Nguyễn Tuân đã quan niệm: Dù bất cứ nghề nào, con người bộc lộ tài năng, khéo léo, điêu luyện trong nghề nghiệp, người đó là nghệ sĩ.
Với nghệ thuật miêu tả giàu tính tạo hình, kết hợp nhiều yếu tố điện ảnh, lối kể chuyện hồi hộp giàu kịch tính, có cái nhìn của nhà địa lý chính xác, nhà quân sự tài ba, nhà văn đã làm nổi bật cuộc chiến đầy dữ dội nhưng cuối cùng con người đã chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên. Đó là kì tích lao động của con người. Bí quyết làm nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn.
Đó chính là sự ngoan cường, chí quyết tâm và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước đã giúp con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Bí quyết đó chính là những yếu tố làm nên chất “vàng mười” của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung. Qua đó nhà văn ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng.
Trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng Là “vàng mười” của đất nước ta. “Vàng mười” là để gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Con người được ví với khối vàng mười quý báu lại chỉ là những ông lái đò nghèo khổ, những người trên hình hài còn in hằn những dấu vết khắc nghiệt của công việc chéo thuyền quá đỗi gian nan, cực nhọc, hiểm nguy.
Tất cả những người lái đò trong tuỳ bút này, không trừ một ai, đều làm lụng âm thầm, giản dị, tuyệt đối vô danh, vì tác giả nhất định không chịu nêu tên họ. Song những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà họ trở nên lớn lao, kì vĩ.
Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người.