Bài văn phân tích vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua bài thơ "Cảnh ngày hè" số 5
Nguyễn Trãi - một cái tên đã quá quen thuộc với ta trong nền văn học trung đại của Việt Nam, ông là một trong ba nhân vật duy nhất ở nước ta được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới. Tài năng của ông được thể hiện ở cả hai thể loại chữ Nôm và chữ Hán mà ông đã đạt được những thành tựu to lớn.
Chính Nguyễn Trãi đã là người đặt nền móng đầu tiên và mở đường cho sự phát triển thơ ca tiếng Việt đương thời, nhờ những áng văn chương kỳ bút của ông mà nó đã giúp cho văn học trung đại sự soi sáng và phát triển mạnh mẽ. Ta từng nghe qua “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là áng “thiên cổ hùng văn” và đồng thời cũng là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc với giọng văn hào hùng, mạnh mẽ, đầy tự hào; và rồi ta cũng từng nghe qua “Cảnh ngày hè” cũng là một thi phẩm của ông nhưng lại mang một vẻ đẹp vô cùng đặc biệt về cảnh sắc ngày hè nhưng lại gửi gắm trong đó biết bao điều tuyệt vời của vị thi nhân. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là bài số 43 trên 61 mục “Bảo kính cảnh giới” thuộc phần “Vô đề” của tác phẩm nổi tiếng “Quốc âm thi tập” mà ông đã sáng tác vào những năm tháng ở ẩn, lui khỏi chốn quan trường. Bài thơ không chỉ tả cảnh đơn thuần mà còn mang trong đó chính là tâm hồn của Nguyễn Trãi chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân và đất nước,… con người ấy ta chỉ có thể dùng hai từ để miêu tả đó chính là “tuyệt vời” mà thôi!
Thật vậy, qua từng dòng thơ trong thi phẩm đã làm hiện hữu lên vẻ đẹp tâm hồn sâu sắc ấy, ông yêu thiên nhiên là ông đang hòa hợp, gắn bó, yêu quý và đặc biệt rung động trước vẻ đẹp của nó. Rồi ông cũng yêu đời, ông luôn vui vẻ, lạc quan, trân trọng chính cuộc sống của riêng ông tạo ra bởi vậy mà ông lúc nào cũng sống thật thanh thản và thanh tịnh. Nhưng có lẽ tình yêu lớn lao nhất chính là tình thương mà ông dành cho dân, cho nước, lúc nào cũng vậy, vị thi nhân ấy luôn nghĩ đến tình thương ấy trước bởi chăng nó đã thấm nhuần vào dòng máu của bậc tiền bối đáng quý. Vẻ đẹp tâm hồn ấy thật đáng ngưỡng mộ để rồi sau này cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói rằng: “trong sáng và đầy sức sống”
Trước hết bài thơ chính là tình yêu chan chứa mà ông dành cho thiên nhiên cũng như cuộc đời mình:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Mở đầu bài thơ, người thi sĩ hiện lên với tư thế nhàn hạ, thảnh thơi và rất tao nhã:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Câu thơ chỉ vỏn vẹn sáu từ nhưng đã miêu tả rõ nét về thời gian, hoàn cảnh cũng như tâm trạng của ông, Nguyễn Trãi thực sự khéo léo thể hiện tài năng của mình qua câu thơ lục ngôn đầy sáng tạo và độc đáo khi đã phá vỡ tính quy phạm vốn có trong văn học trung đại lúc bấy giờ. Với cách ngắt nhịp 1/2/3 làm câu thơ tưởng như tiếng thở dài nhưng không lấy một câu từ than vãn, dường như ông vô cùng thư thái hoà trọn mình với thiên nhiên bởi ông có hẳn một “ngày trường” để làm điều ấy. Hoàn cảnh thưởng ngoại cũng thật đặc biệt biết mấy, đây chính là những giây phút hiếm hoi trong cuộc đời của vị quan thanh liêm dành cả đời vì một sứ mệnh bảo vệ, lo lắng,… cho nhân dân, cho đất nước. Hơn 57 năm cống hiến là thế nhưng những năm cuối đời ấy cũng chẳng được mang hai chữ “bình yên” bởi chăng ông chẳng khỏi đắn đo suy nghĩ một nỗi ưu phiền? Nếu như dưới thời Hồng Đức có hai câu thơ:
“Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”
Hai câu thơ cũng viết về cảnh ngày hè mang dáng vẻ mộc mạc, thô ráp và dân dã qua từng ngôn từ và cách miêu tả nhưng những điều ấy đã thay đổi hoàn toàn trong thơ ca của Nguyễn Trãi, nó được thay thế bởi sự giao cảm mạnh mẽ mà rất đỗi tinh tế của một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên và yêu đời hiếm thấy qua năm câu thơ tiếp theo:
“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Cảnh vật hiện lên trong bức tranh mang một sức sống mãnh liệt đến kì lạ, các nhà thơ xưa khi đến với thiên nhiên thường bằng bút pháp vịnh còn Nguyễn Trãi lại thiên về tả thực hết sức mới lạ. Bức tranh ấy hiện lên có đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị,… xen lẫn vào đó còn có cả cuộc sống của con người thật láo nhiệt, tràn đầy sức sống. Đầu tiên là màu xanh đậm của những tán hoè đang tầng tầng lớp lớp đẩy lên cao, còn kia lại là màu đỏ rực của những bông hoa lựu, và kia lại là màu hồng của những bông sen toả ngát mùi hương, trên cao ta lại bắt gặp màu vàng của nắng chiều ấm áp,… bức tranh đầy đủ màu sắc dường như đang cuốn hút ta đến với nó bởi màu sắc chan hòa, rực rỡ đến tinh tế và khéo léo. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn sử dụng hàng loạt những động từ mạnh diễn tả trạng thái của sự vật: “đùn đùn”, “rợp giương”, “phun”, “tiễn” khiến bức tranh càng thêm sống động và rồi cũng len lỏi vào bức tranh thiên nhiên ấy còn có âm thanh của tiếng đàn thiên nhiên, âm thanh cuộc sống con người bên làng chài lưới,… tô thêm vẻ sôi động náo nhiệt cho bức tranh thiên nhiên càng thêm phần hấp dẫn. Ta biết đến thơ văn trung đại qua đặc điểm ước lệ tượng trưng thiên về cách cảm nhận mang màu sắc sách vở, cổ điển muôn đời vì vậy mà thi nhân xưa thường tâm đắc với mùa thu hay mùa xuân hơn rất nhiều nhưng lại chỉ quanh đi quẩn lại gò bó trong cách thức miêu tả từ thể thơ đến hình ảnh như thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật, thất ngôn bát cú Đường Luật,… hay là qua hình ảnh cánh chim nhạn, lá đỏ rừng phong, buổi chiều tàn đầy nỗi buồn,… Trong bức tranh này thì đã khác hoàn toàn bởi Nguyễn Trãi có tâm hồn yêu thiên nhiên vô cùng sâu sắc. Trước hết là cách chọn chủ đề mới lạ đó chính là mùa hạ và đặc biệt hơn cả là sử dụng ngôn từ tinh tế, qua đó bức tranh tràn đầy sức sống, mạnh mẽ và mãnh liệt phá cách đến cuốn hút người đọc. Sức sống ấy đã hoá thành màu sắc, thành tán, thành luồng, “đùn đùn” mà xanh, dào dạt mà “phun”, ngào ngạt mà nức, cảnh thiên nhiên không hề tĩnh lại mà vẫn động và cháy hết mình:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”
“thức đỏ” không còn chỉ dừng lại là màu sắc mà còn mang dáng vẻ của một sức sống dâng trào, sau này trong “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Duy cũng có câu thơ:
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
câu thơ của Nguyễn Du mang đậm chất tạo hình, thiên về tả hình sắc chấm phá nhưng cũng mang một chút tương đồng với câu thơ của Nguyễn Trãi bởi nó đều cho ta cảm nhận được những thứ ẩn lấp sau dáng vẻ của bông hoa lựu, phải chăng đó chính là sức sống, là vẻ đẹp, là cảm xúc,… Thiên nhiên Nguyễn Trãi mang lại cho ta chứa chan biết bao xúc cảm, lúc bừng vừng phun trào với tán hoè với bông lựu, lúc lại dịu nhẹ lan tỏa với mùi hương sen ngào ngạt như lắng lại để tạo cho thi nhân một điểm tựa để hòa mình với thiên nhiên, để càng thêm yêu đời, yêu cuộc sống. Hẳn ông phải là một người có tâm hồn tinh tế lắm mới cảm nhận được sự chuyển động của cảnh sắc nơi đây, khi mà ông quan sát kĩ đến mức thấy nó vẫn “đang” phun màu, thấy nó “đã” tiễn mùi hương, và không chỉ cảm nhận bằng thị giác và khứu giác nữa mà Nguyễn Trãi còn cảm nhận thiên nhiên bằng cả thính giác để lắng nghe cuộc sống chốn thôn quê. Đó là âm thanh của chợ cá làng chài lưới, gợi cho ta đến một cuộc sống thanh bình ấm êm của người dân, cảnh mua bán của họ tấp nập mà không quá ồn ào để làm khuấy động cảnh sắc của bức tranh. Và rồi khi đọc đến dòng thơ này ta lại đặt ra một câu hỏi “quê hương ông không hề có biển, nhưng tại sao ở đây lại có hình ảnh của làng chài lưới?” Và câu trả lời chỉ có một, ông đã khéo léo hoà tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời của mình với tình yêu ông dành cho dân, âm thanh “lao xao” ấy chỉ được nghe bởi một thi nhân có tình thương sâu sắc với dân và đó chính là Nguyễn Trãi. Ca dao Việt Nam có câu:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
hay là của Nguyễn Du:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về”
Buổi chiều hiện lên mang một nét đượm buồn, từ nỗi buồn day dứt khi người phụ nữ xã hội phong kiến xưa nhớ về quê mẹ cho đến nỗi buồn man mác của chị em Thuý Kiều lúc hội xuân đã tàn. Nhưng buổi chiều qua bàn tay tài ba của Nguyễn Trãi lại ngược lại hoàn toàn, buổi chiều trong thơ ông hiện lên mang đầy âm hưởng của tiếng đàn thiên nhiên- tiếng ve kêu, nó tựa như tiếng đàn rất mạnh mẽ mà rạo rực, dân dã mà thanh tao, hối hả nhưng vẫn rất bình yên đến từ ánh nắng vàng buổi chiều tà. Nếu ở ẩn theo quan niệm đương thời chính là xa lánh với cuộc sống đời thường, khép mình với thiên nhiên, ủ rũ trong bốn bức tường,… thì Nguyễn Trãi lại thể hiện trong văn chứng minh rằng: ở ẩn là để phản chiếu tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết và đón nhận, thưởng tức cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi sầu phiền muộn.
Khác với những dòng thơ đầu của bài mang vẻ đẹp của tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu đời thì hai câu thơ cuối lại là nỗi lòng của tác giả qua đó khắc hoạ một tâm hồn yêu nước, thương dân da diết đến xúc cảm của thi nhân:
“Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Tuy rằng là một vị quan thất sủng không còn được vua Lê trọng dụng như trước nữa, ông cũng đã lui về ở ẩn tránh xa cuộc sống muộn phiền nhiều ganh đua nơi mà đầy những hiểm nguy “ra luồn vào cúi” cũng như Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai câu thơ:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Tưởng rằng như vậy là đã được nhàn, được sống thanh thản, nhưng không, vị quan thanh liêm ấy vẫn chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi lo cho dân, cho nước bời ông luôn có tư tưởng: thương dân, yêu dân, trọng dân, ông coi những con người “chân lấm tay bùn” ấy quyết định suy vong của một triều đại. Ông ước ao có cây đàn của vua Ngu Thuấn- một ông vua trong thần thoại Trung Quốc từng trị vì triều đại lí tưởng, đất nước thái bình thịnh tri, nhân dân yên ấm thuận hoà và đó chính là ước mơ cả đời của ông, được cầm trên tay là cây đàn kia để rồi đàn một khúc Nam Phong gửi tới muôn dân:
“Gió nam mát mẻ
Làm cho dân ta bớt ưu phiền
Gió nam thổi đúng lúc
Là cho dân ta thêm nhiều của cải”
Và rồi Lê Thánh Tông cũng từng có câu thơ:
“Nhà bắc nhà nam đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”
Dân chính là món nợ của cả cuộc đời ông chưa trả hết, vì vậy trong ông lúc nào cũng mong ước dân ta cơm ăn đủ no, áo mặc đủ ấm, hạnh phúc, yên vui, và cùng ca ngợi dân giàu khắp mọi nơi. Lại một lần nữa Nguyễn Trãi sử dụng câu thơ lục ngôn với nhịp 3/3 kết lại ngắn gọn, cô đúc nhưng mang đầy tâm huyết, chứa đầy khát vọng của cả cuộc đời:
“Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Quả thực tâm hồn Nguyễn Trãi chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu dân, yêu nước, đó là một tâm hồn nhạy cảm đến thanh tao, tinh tế mà giản dị, tâm hồn ấy tựa như vì sao khuê đang tỏa sáng giữa bầu trời đêm cũng như Lê Thánh Tông từng viết rằng:
“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Câu thơ là một lời đúc kết về Nguyễn Trãi vô cùng sâu sắc, nó thể hiện qua mỗi tác phẩm ông để lại cho hậu thế dù không nhiều nhưng đủ cho ta thấy một trí tuệ uyên bác, một chí khí hào hùng, một nhân cách cao thượng và đặc biệt là một tâm hồn tinh tế thể hiện rất rõ qua bài thơ “Cảnh ngày hè”.
Bài thơ với tám câu sử dụng thể thơ Đường Luật của Trung Quốc nhưng đã khéo léo sử dụng hai câu thơ lục ngôn mang đậm bản sắc dân tộc đến tài tình để lại cho hậu thế những vần thơ vô cùng ý nghĩa, dễ đọc, dễ hiểu. Ngôn từ giản dị mà tinh tế, lồng ghép khéo léo cùng với các điển tích điển cố cũng những hình ảnh sinh động, sử dụng hàng loạt các tính từ, động từ mạnh đã góp phần tạo nên một thi phẩm, một kiệt tác, một áng văn chương để đời! Bài thơ tưởng chừng chỉ là một bức tranh tả cảnh sắc thiên nhiên cuộc sống đời thường nhưng ẩn sâu trong đấy lại là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, nó chứa chan tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu đất nước, yêu dân cùng với đó là tâm hồn thanh cao, nhàn tản nhưng luôn hoài nỗi niềm đau đáu về dân về nước ấy đích thị là Nguyễn Trãi- một nhân cách sống tuyệt vời đáng để cho hậu thế học tập!