Top 11 Bài thơ hay nhất của nhà thơ Tản Đà

Phương Kem 5171 0 Báo lỗi

Tản Đà tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và ... xem thêm...

  1. Nước non nặng một nhời thề

    Nước đi đi mãi không về cùng non

    Nhớ nhời nguyện nước thề non

    Nước đi chưa lại non còn đứng không

    Non cao những ngóng cùng trông

    Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày

    Xương mai một nắm hao gầy

    Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương

    Giời tây chiếu bóng tà dương

    Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha


    Non cao tuổi vẫn chưa già

    Non thời nhớ nước, nước mà quên non!

    Dẫu rằng sông cạn đá mòn

    Còn non còn nước hãy còn thề xưa

    Non xanh đã biết hay chưa?

    Nước đi ra bể lại mưa về nguồn

    Nước non hội ngộ còn luôn

    Bảo cho non chớ có buồn làm chi!

    Nước kia dù hãy còn đi

    Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui

    Nghìn năm giao ước kết đôi

    Non non nước nước không nguôi nhời thề.

    Thề Non Nước
    Thề Non Nước
    Thề Non Nước

  2. Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi
    Trần giới em nay chán nửa rồi
    Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
    Cành đa xin chị nhắc lên chơi
    Có bầu, có bạn can chi tủi
    Cùng gió, cùng mây thế mới vui
    Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
    Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.

    Muốn làm thằng Cuội
    Muốn làm thằng Cuội
    Muốn làm thằng Cuội
  3. Trong trần thế cảnh nghèo là khổ
    Nỗi sinh nhai khốn khó qua ngày
    Quanh năm gạo chịu tiền vay
    Vợ chồng lo tính hôm rày hôm mai.
    Áo lành rách vá may đắp điếm
    Nhà ở thuê chật hẹp quanh co
    Tạm yên đủ ấm vừa no
    Cái buồn khôn xiết, cái lo khôn cùng.
    Con đi học con bồng con dắt
    Lớn chưa khôn lắt nhắt thơ ngây,
    Hôm hôm lớn bé sum vầy
    Cũng nên vui vẻ mà khuây nỗi buồn.
    Nghĩ thiên hạ cho con đi học
    Cảnh phong lưu phú túc nói chi!
    Những ai bần bạc hàn vi
    Lo buồn, đã vậy, vui thì cũng vui.
    Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa
    Mắt trông con đứa đứa về dần
    Xa xa con đã tới gần
    Các con về đủ quây quần bữa ăn.
    Cơm dưa muối khó khăn mới có,
    Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
    Khi vui câu chuyện thêm giòn
    Chồng chồng vợ vợ con con một nhà.
    Ăn rồi học, tối qua lại sáng,
    Ít tiền tiêu ngày tháng thảnh thơi,
    Chiều chiều tối tối mai mai
    Miễn sao no đủ, việc đời quản chi!
    Con nhà khó nhiều khi vất vả,
    Ngoài học đường thư thả được đâu,
    Khi thời quẩy nước tưới rau
    Chợ tan đón gánh theo sau mẹ già.
    Việc giấy bút vẫn là đi học
    Cảnh gia đình khó nhọc nhường ai?
    Ví chăng có chí có tài
    Khi nên, trời cũng cho người làm nên.
    Khắp xã hội nghèo hèn ai đó
    Mẹ thương con thời cố công nuôi
    Những con nhà khó kia ơi
    Có thương cha mẹ thời vui học hành!
    Cũng chẳng kể thành danh lúc khác
    Trời đã cho bước bước càng hay
    Nghèo mà học được như nay
    Vinh hoa chưa dễ sánh tày cái vui.
    Trong trần thế nhiều nơi phú quý
    Nỗi buồn riêng ai ví như ai?
    Bày ra cái cảnh có trời
    Vui buồn cũng ở tự người thế gian.

    Cảnh Vui Nhà Nghèo
    Cảnh Vui Nhà Nghèo
    Cảnh Vui Nhà Nghèo
    Cảnh Vui Nhà Nghèo
  4. Người đời thử ngẫm mà hay
    Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!
    Còn ai ai tỉnh ai mê
    Những ai thiên cổ đi về những đâu?

    Đời đáng chán hay không đáng chán?
    Cất chén quỳnh, riêng hỏi bạn tri âm
    Giá khuynh thành nhất tiếu thiên câm
    Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục
    Giang hà nhật hạ nhân giai trọc
    Thiên địa lô trung thục hữu tình
    Đón đưa ai gió lá chim cành
    Ấy nhân thế phù sinh là thế thế
    Khách phù thế chửa dứt câu phù thế
    Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu
    Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu
    Chuyện kim cổ một vài câu phải trái
    Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thuý Ái
    Sóng Tiền Đường, cỏ áy bến Ô giang
    Ngẫm nghìn xưa: ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang
    Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ
    Đời đáng chán biết thôi là đủ
    Sự chán đời xin nhủ lại tri âm
    Nên chăng nghĩ lại kẻo nhầm.

    Đời Đáng Chán
    Đời Đáng Chán
    Đời Đáng Chán
    Đời Đáng Chán
  5. Say sưa nghĩ cũng hư đời,
    Hư thời hư vậy, say thời cứ say.
    Đất say đất cũng lăn quay,
    Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?
    Say chẳng biết phen này là mấy!
    Nhìn non xanh chẳng thấy, lại là say.
    Quái! Say sao say mãi thế này?
    Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh.
    Thê ngôn tuý tửu chân vô ích
    Ngã dục tiêu sầu thả tự do
    Việc trần ai, ai tỉnh ai lo
    Say tuý luý nhỏ to đều bất kể.
    Trời đất nhỉ, cái say là sướng thế!
    Vợ can chồng, ai dễ đã chừa ngay?
    Muốn say lại cứ mà say!

    Lại say
    Lại say
    Lại say
    Lại say
  6. Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà,
    Đường xa, người vắng, bóng chiều tà,
    Một dãy lau cao làn gió chạy,
    Mấy cây thưa lá sắc vàng pha.
    Ngoài xa trơ một đống đất đỏ,
    Hang hốc đùn lên đám cỏ gà.
    Người nằm dưới mả, ai ai đó?
    Biết có quê đây hay vùng xa?
    Hay là thuở trước kẻ cung đao?
    Hám đạn liều tên quyết mũi đao.
    Cửa nhà xa cách vợ con khuất,
    Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao,
    Hay là thuở trước kẻ văn chương?
    Chen hội công danh nhỡ lạc đường.
    Tài cao phận thấp chí khí uất,
    Giang hồ mê chơi, quên quê hương.
    Hay là thuở trước khách hồng nhan?
    Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen.
    Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
    Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.
    Hay là thuở trước khách phong lưu?
    Vợ con đàn hạc đề huề theo.
    Quan san xa lạ đường lối khó,
    Ma thiêng nước độc phong sương nhiều.
    Hay là thuở trước bậc tài danh?
    Đôi đôi, lứa lứa cũng linh tinh
    Giận duyên tủi phận hờn ân ái,
    Đất khách nhờ chôn một khối tình!
    Suối vàng sâu thẳm biết là ai?
    Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!
    Trải bao ngày tháng trơ trơ đó,
    Mưa dầu, nắng dãi, trăng mờ soi!
    Ấy thực quê hương con người ta
    Dặn bảo trên đường những khách qua:
    Có tiếng khóc oe thời có thế
    Trăm năm ai lại biết ai mà!

    Thăm mả cũ bên đường
    Thăm mả cũ bên đường
    Thăm mả cũ bên đường
  7. Thân em tên gọi cây Đào
    Đẹp tươi hoa thắm, ngọt ngào quả xanh
    Lá non mơn mởn trên cành
    Cành non yểu điệu như hình gái tơ
    Từ khi em bé đến giờ
    Bắt sâu vun gốc cũng nhờ tay ai
    Em trông con gái những người
    Khôn ngoan đã sẵn có giời phú cho
    Thế mà nếu chẳng hay lo
    Biết đâu rồi nữa chẳng thua cây đào.

    Cây Đào
    Cây Đào
    Cây Đào
    Cây Đào
  8. Gặp xuân ta giữ xuân chơi
    Câu thơ chén rượu là nơi đi về
    Hết xuân, cạn chén, xuân về
    Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!
    Xuân ơi xuân hỡi!
    Vắng xuân lâu ta vẫn đợi, chờ, mong
    Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông
    Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?
    Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt
    Kim niên xuân đáo, khách tương phùng
    Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng
    Tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác
    Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước
    Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
    Đến xuân nay ta tuổi đã năm mươi
    Tính trăm tuổi, đời người ta có nửa
    Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa
    Mặc trời cho, ta chửa hỏi làm chi
    Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi
    Chỗ quen biết kể gì ai chủ khách
    Thiên cổ vị văn song Lý Bạch
    Nhất niên hà đắc lưỡng Đông quân
    Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần
    Thơ với rượu cùng xuân, ta cứ thế
    Ngoài trăm tuổi, vắng ta trần thế
    Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm!
    Cùng nhau nay hãy uống thêm!

    Gặp xuân
    Gặp xuân
    Gặp xuân
    Gặp xuân
  9. Tháng một qua rồi, tháng chạp đến
    Năm tàn Bính Tý nay gần tết
    Ngoài đường tấp nập chợ đi đông
    Quang cảnh trông ra gần lại tết
    Ông Công ngựa cá đã lên giời
    Hạ giới cùng nhau tết đến nơi!
    Kẻ có tha hồ vui vẻ tết
    Nhà nghèo tết đến cũng lôi thôi!
    Tết nhất từ xưa đã biết bao?
    Vui xuân năm ấy giống năm nào
    Cỗ bàn, bánh pháo mừng thên tuổi
    Một bước đời lên, một bước cao
    Gần tết bao nhiêu cảnh khác nhau
    Người vui sắm sửa, kẻ lo sầu
    Phong lưu thiên hạ nghe chừng ít
    Lo tết trần gian chẳng thiếu đâu!
    Quanh năm luống những túng cùng lo
    Tết nhất thêm ra cũng lắm trò
    Lễ nghĩa muốn thôi, thôi chẳng dứt
    Nợ nần vay trả khất quanh co!
    Độp cái, năm tàn chóng hết thôi
    Để chi đeo đuổi bận lòng ai
    Còn năm luống những lo không dứt
    Lo mãi quanh năm chán cả đời
    Gần tết bao nhiêu, rát bấy nhiêu
    Cái lo đâu đến đủ trăm chiều
    Mong sao chóng hết năm tàn đó
    Để mấy ngày chi lẵng đẵng theo!
    Tiễn năm ta có mấy vần thơ
    Năm hết cho người cũng hết lo
    Sắp sửa cành nêu, xuân đón chúa
    Thử xem năm mới có ra trò!

    Gần tết tiễn năm cũ
    Gần tết tiễn năm cũ
    Gần tết tiễn năm cũ
    Gần tết tiễn năm cũ
  10. Trận gió thu phong rụng lá vàng

    Lá rơi hàng xóm, lá bay sang

    Vàng bay mấy lá năm già nửa

    Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng!

    Trận gió thu phong rụng lá hồng

    Lá bay tường bắc, lá sang đông

    Hồng bay mấy lá năm hồ hết

    Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không!

    Gió thu
    Gió thu
    Gió thu
    Gió thu
  11. Tản Đà, tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong cách thơ của Tản Đà nổi bật với những đặc điểm sau:


    • Sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại: Tản Đà sử dụng ngôn ngữ thơ phong phú và hình ảnh đa dạng, kết hợp yếu tố cổ điển của thơ Đường và cảm hứng hiện đại của thơ tự do. Ông thể hiện sự hòa quyện giữa các phong cách, từ đó tạo ra những tác phẩm có chiều sâu và sự mới mẻ.
    • Tinh thần lạc quan, hào hứng: Thơ Tản Đà thường mang tính chất lạc quan, hào hứng, thể hiện sự yêu đời, yêu thiên nhiên, và cảm xúc mạnh mẽ. Ông thường mô tả vẻ đẹp của cảnh vật và cuộc sống một cách tươi sáng và sinh động.
    • Lối viết tự do và linh hoạt: Mặc dù Tản Đà có kiến thức vững về thơ cổ điển, ông thường thử nghiệm với các thể thơ và cách viết mới. Điều này cho phép ông có sự tự do trong việc sáng tạo và thể hiện cảm xúc cá nhân.
    • Chất thơ dân gian và truyền thống: Tản Đà không ngần ngại sử dụng các yếu tố dân gian và truyền thống trong thơ của mình. Ông thường xuyên sử dụng các điển tích, câu ca dao, và các biểu tượng văn hóa dân gian trong các tác phẩm của mình.
    • Tư duy triết lý và sâu sắc: Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống, thơ Tản Đà cũng thể hiện sự suy tư về nhân sinh, thời cuộc, và những vấn đề triết lý sâu sắc. Ông thường đưa ra những nhận xét, quan điểm về cuộc sống, con người và xã hội.
    • Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh: Tản Đà sử dụng ngôn ngữ thơ rất phong phú với nhiều hình ảnh và biểu cảm sinh động. Ông thường tạo ra những hình ảnh độc đáo và mới lạ, khiến cho thơ của ông dễ dàng ghi dấu ấn trong tâm trí người đọc.


    Các tác phẩm nổi tiếng của Tản Đà như "Bích câu kỳ ngộ," "Chùa Hương," hay "Lục bát" đã thể hiện rõ ràng những đặc điểm phong cách thơ này và chứng tỏ sự đóng góp quan trọng của ông vào nền văn học Việt Nam.




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy