Top 5 Bài văn phân tích Nỗi niềm tương tư hay nhất
Vũ Quốc Trân là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thời kỳ phát triển văn học Nôm, đã để lại nhiều tác phẩm quan trọng, góp phần trong việc phát triển nền văn học ... xem thêm...truyền thống. Trong số đó, Bích Câu kỳ ngộ là một tác phẩm văn học đặc sắc. Đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” nằm trong tác phẩm nổi tiếng của ông, kể về khởi nguồn thứ tình yêu đầy mộng mị đó, đoạn trích diễn tả tâm trạng tương tư của tú Uyên sau khi gặp được người đẹp ở chùa Ngọc Hồ. Để hiểu rõ hơn, Toplist mời bạn đọc tham khảo những bài văn mẫu phân tích Nỗi niềm tương tư hay nhất dưới đây:
-
“Bích câu kì ngộ” là câu chuyện thơ Nôm nổi tiếng với thể thơ lục bát uyển chuyển, nói về chuyện tình yêu giữa chàng Tú Uyên và nàng tiên nữ Giáng Kiều. Trong đó nổi bật là đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” kể về khởi nguồn thứ tình yêu đầy mộng mị đó, đoạn trích diễn tả tâm trạng tương tư của tú Uyên sau khi gặp được người đẹp ở chùa Ngọc Hồ.
Tú Uyên là một thư sinh nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Có dịp chàng đến chơi Bích Câu, thấy phong cảnh đẹp quá mà quyết định làm nhà ở đấy ngày đêm đèn sách học hành.
Một hôm nhân dịp trời Xuân lay động, Tú Uyên đi chơi hội chùa Ngọc Hồ. Chàng nhặt được một chiếc “lá hồng” có đề câu thơ. Ngay lúc chàng định họa lại thì bỗng dưng xuất hiện một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần trước cửa tam quan, chàng cứ thế mà đi theo bóng người thiếu nữ cho đến Quảng Văn thì không thấy tung tích thiếu nữ đó đâu nữa. Khi trở về nhà, chàng đem lòng thương nhớ, tương tư bất kể ngày lẫn đêm:
Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Ta có thể thấy được nét si tình ở chàng Tú Uyên, chỉ vì một giây trông thấy, mà giường như chàng đã cả một đời nhớ thương. Chàng si mê nàng đến nỗi “ngơ ngẩn”, đến nỗi đèn thông cháy đã cạn mà chàng vẫn thao thức chưa ngủ được “giấc hòe chưa nên”. Chàng nghĩ về người con gái xinh đẹp đó phải chăng là tiên nữ, biết bao giờ mới được gặp lại. Nỗi nhớ người trong mộng không chỉ được thể hiện ở suy tư của chàng thư sinh mà còn được bộc lộ, thể hiện bằng cử chỉ:
Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya.
Từ “có” lặp đi lặp lại 4 lần thể hiện những hành động của Tú Uyên khi không thể không nghĩ về người thiếu nữ đó. Chàng nhớ nàng chỉ nghĩ thôi chưa đủ, phải “gảy nên khúc đàn tranh” mong nàng nghe được tấm chân tình này, giống như cô gái Văn Quân khi nghe được tiếng đàn “Cầu hoàng” của Tương Như nên phải lòng đi theo. Phải mượn men say của “chén rượu đào” để thổ lộ tâm tư thầm kín hay chính là “mượn rượu để tỏ tình”. Tú uyên mong được uống với nàng chén “ngọc giao” để kết duyên đôi lứa. Lúc này chàng say nhưng lại không phải say rượu, cơn say này được ví như “mùi nhớ” hay chính là say ân tình với nàng tiên nữ. Chàng còn phải “ngồi suốt năm canh” để nghe những “tiếng đoạn trường”, vì không biết bao giờ mới có thể gặp được người thương nên chàng nhớ mong, đau đớn như đứt từng khúc ruột. Bởi vậy mới thấy tình cảm của Tú Uyên dành cho người thiếu nữ đó nhiều đến nỗi nào, chỉ cần một ánh mắt mà đã làm con người chàng đắm say như “lửa tình dễ đốt”. Đặc biệt, tác giả dựa vào tuyền thuyết hai người vợ Nga Hoàn và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương Giang khi Vua Thuần mất để dùng từ “sông Tương” ví với nước mắt, nước mắt ở đây là nước mắt của Tú Uyên khi để lạc mất người mình hằng mong nhớ, lạc mất đi cả cuộc đời. Chàng còn ngồi “ngắm bóng trăng tàn”, hy vọng về một chút tin tức của nàng.
Nỗi nhớ đó dù đã được bộc lộ nhưng vẫn “ngổn ngang” không ngơi:
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư
Dù đã mượn “khúc đàn tranh”, mượn “chén rượu đào” nhưng tình nồng đâu biết “đã đề với ai? Dù cảnh Xuân có vui nhưng không gặp được nàng thì vơi Tú Uyên vẫn chỉ có một “Sầu xuân riêng nặng một người tương tư. Tình cảm của Tú Uyên dạt dào, mãnh liệt và thủy chung giống như Xuân Diệu đã từng viết trong bài thơ “Tình thứ nhất”:
“Thôi thôi nhé, hoa đã sầu dưới đấtCười trên cành sao được nữa em ơi!
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Đem cho em là đã mất đi rồi!”
Với lời thơ kết hợp giữa tự sự và trữ tình, đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” cho ta thấy được nỗi niềm tương tư và khát vọng tình yêu đôi lứa cháy bỏng của chàng thư sinh Tú Uyên. Có phải chăng một tình yêu cuồng nhiệt, hết lòng hết dạ là đáp số chung cho những ai đang chìm đắm trong mộng tình, có phải chăng từng lời thơ như muốn nói hộ tấm chân tình đó!
-
Nỗi niềm tương tư trích truyện thơ nôm Bích câu kì ngộ được viết theo thể lục bát. Truyện thơ nôm này có độ dài gần 700 câu, là câu chuyện tình yêu của Tú Uyên và Giáng Kiều. Tác phẩm tập trung khai thác chuyện tình tuyệt đẹp giữa người và tiên, những khát khao của đôi lứa về cuộc sống hạnh phúc, tự do trong hôn nhân. Nhan đề đoạn trích này là do người biên soạn sách đặt.
Sau khi đi hội Ngọc Hồ, tình cờ gặp người đẹp Giáng Kiều, Tú Uyên nảy sinh tình cảm và ngày đêm mong nhớ. Trở về nhà chàng ôm mộng tương tư với nàng Giáng Kiều, khao khát được gặp nàng dù chỉ một lần. Đoạn trích Nỗi niềm tương tư diễn tả nỗi nhớ thương của Tú Uyên. Nhan đề do người biên soạn đặt đã phần nào nói lên được nỗi niềm nhớ mong ấy.
Lần trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa quên
Động từ “ngơ ngẩn” đã thể hiện đúng tâm trạng của Tú Uyên vào lúc này. Đó là nỗi nhớ thương khôn nguôi, tâm trí rối bời khi gặp nàng ở hội Ngọc Hồ. Phải lòng ánh mắt của mỹ nữ, Tú Uyên ngày nhớ đêm mong đến nỗi chẳng ăn ngủ được, ra về mà lòng chàng nặng trĩu, chỉ muốn có thể gặp được người tình trong mộng. Cách sử dụng những điển tích, điển cố như giấc hòe, Cầu Hoàng, Văn Quân khiến cho ý thơ trở nên trang trọng. Chàng Tú Uyên tưởng tượng ra tình cảnh nhớ thương của mình giờ đây chẳng khác nào Tương Như phải lòng tiếng đàn của Văn Quân, giống như giấc mộng dưới gốc cây hoè. Những hình ảnh ẩn dụ ví von như “bướm kia vương lấy sầu hoa” là cách so sánh ngầm thể hiện tình yêu và nỗi nhớ thương canh cánh của lòng chàng với nàng Giáng Kiều. Nỗi nhớ thương nhiều đến mức khiến chàng làm gì cũng thấy nhớ: khi gảy đèn, lúc nâng chén rượu, lúc nghĩ đều có hình bóng của người thương:
Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?
Tú Uyên cũng có dự cảm về người con gái mà mình gặp ấy phải chăng đó là người tiên “người tiên khéo là” vì cử chỉ duyên dáng, dung mạo thoát tục, vẻ đẹp nghiêng nước, nghiêng thành.
Những khổ thơ sau tiếp tục cực tả nỗi niềm tương tư nhớ mong của Tú Uyên bằng cách sử dụng những điển tích, điển cố, phép điệp: Có khi chuốc chén rượu đào, có khi ngồi suốt năm canh, có đêm ngóng bóng trăng tàn… cho thấy làm gì, lúc nào tâm trạng của Tú Uyên cũng chỉ để ở bên nàng Giáng Kiều. Say đắm vẻ đẹp của nàng giống như người say men “không nhắp mà say”, thức suốt cả năm canh để nghe tiếng mõ, tiếng chuông và lòng thì thao thức không nguôi. Hình ảnh sóng Tương khôn hàn thể hiện nỗi nhớ thương dằng dặc dâng trào thành những giọt nước mắt:
Lặng nghe những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ đốt, sóng Tương khôn hàn.
Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích nhưng lại mở ra cả một nỗi niềm thương nhớ của Tú Uyên:
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia
Nỗi riêng, riêng biết, dã dề với ai
Vui xuân chung cảnh một trời
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư.
Người tương tư đã để tâm ở chỗ nàng Giáng Kiều mất rồi, thần trí chẳng còn ở chỗ mình nữa. Ngày nhớ đêm mong, quả là người si tình.
Đoạn trích sử dụng yếu tố tự sự và trữ tình và thể thơ lục bát quen thuộc của truyện thơ nôm. Cách sử dụng điển tích, điển cố, điệp ngữ, ẩn dụ và lối ví von so sánh độc đáo đã cho thấy tình cảm và nỗi niềm nhớ thương của chàng Tú Uyên với Giáng Trần. Nỗi nhớ khiến cho người sống trong mộng tưởng, ăn không ngon và ngủ chẳng yên, thế nên Tú Uyên mới tìm mọi cách để có thể gặp lại Giáng Kiều bày tỏ tình yêu và nỗi nhớ thương của mình.
Đoạn trích tiêu biểu cho những nét đặc sắc về phong cách sáng tác của Vũ Quốc Trân. Sử dụng những điển tích, điển cố quen thuộc, thủ pháp ước lệ đặc trưng trong thơ cổ. Qua đó khắc hoạ hình ảnh một Tú Uyên si tình hết mực. -
Trong văn học Việt Nam, truyện thơ Nôm đã có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Vũ Quốc Trân, một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ phát triển văn học Nôm, đã để lại nhiều tác phẩm quan trọng, góp phần trong việc phát triển nền văn học truyền thống. Trong số đó, tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ đáng chú ý với sự xuất hiện của đoạn trích Nỗi niềm tương tư, tạo nên một hình ảnh đẹp và sâu sắc về tình yêu và nhớ mong.
Trong đoạn trích này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ tinh tế để miêu tả nỗi nhớ trong tâm hồn của nhân vật chính là Tú Uyên. Anh chàng không thể quên được cảnh tượng của người con gái tuyệt mỹ mà anh gặp ở chùa Ngọc Hồ. Tác giả mô tả tâm trạng của Tú Uyên như sau: "Ngơ ngẩn ra về", đèn thông đã cháy cạn nhưng anh vẫn thao thức, không thể ngủ được. Nỗi nhớ của Tú Uyên không chỉ là một ý nghĩ mà nó còn hiện hữu trong từng cử chỉ và hành động của anh. Đoạn trích Nỗi niềm tương tư cho thấy sự rõ ràng của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ. Tác giả sử dụng điệp ngữ "Có khi" để mô tả những hành động mà Tú Uyên thực hiện khi nghĩ về người con gái đó. Anh ta gảy khúc đàn tranh và chuốc chén rượu đào để thể hiện tình cảm của mình. Những hình ảnh này mang ý nghĩa biểu trưng, tượng trưng cho nỗi nhớ và khát vọng tương tư của Tú Uyên.
"Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya."
Tuy nhiên, Tú Uyên không biết chia sẻ, không biết nói cho ai nghe về những tâm tư của mình. Tác giả sử dụng từ "Ngổn ngang" để miêu tả trạng thái của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ. Anh cảm thấy cô đơn trong nỗi nhớ của mình. Dù có những cảnh vui xuân chung, nhưng nỗi nhớ trong lòng anh vẫn nặng. Tú Uyên trong đoạn trích này. Điều đó thể hiện rằng tình cảm tương tư của Tú Uyên không được đáp lại và anh cảm thấy một cách cô đơn trong nỗi nhớ.
Tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ của Vũ Quốc Trân là một trong những tác phẩm quan trọng trong văn học Nôm và đã góp phần quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. -
Nổi niềm tương tư là một nhan đề biểu hiện tâm trạng sâu sắc của nhân vật chính, Tú Uyên. Cụm từ "nỗi niềm" cho thấy rằng Tú Uyên đang trải qua những tâm tư, tình cảm riêng tư sâu thẳm. Từ "tương tư" thể hiện rằng Tú Uyên đang trong trạng thái nhớ nhung, mong muốn được gặp mặt người mình yêu. Người trong tâm trạng tương tư thường gợi lên những kỷ niệm, nỗi buồn sâu lắng. Như nhà thơ Nguyễn Bính đã nói, "Tương tư là bệnh của trời". Bệnh tương tư thường âm thầm, khó nói ra với ai, và "thuốc" chữa "bệnh" tương tư là được gặp mặt người mình yêu.
Khi Tú Uyên rời khỏi hội chùa Ngọc Hồ để trở về, đoạn thơ truyền đạt rõ ràng sự si tình của anh ta, chỉ vì một lần nhìn thấy một người con gái xinh đẹp, anh ta đã rơi vào một cuộc tương tư suốt đời:
"Khi trăng lên ngơ ngẩn rời đi: chàng trai đắm chìm trong tình yêu đối tác đến mức mơ màng."
"Đèn thông đã tắt, giấc mộng chưa thành hiện thực: dùng biểu tượng của giấc mộng hòe (như câu chuyện về Thuần Vu Phần uống say rồi nằm ngủ dưới gốc cây hòe, sau đó mơ thấy mình trở thành một người giàu có, khi tỉnh giấc phát hiện đó chỉ là giấc mộng). Đèn đã tắt nhưng anh ta vẫn thức suốt đêm, lúc nghĩ về cô gái, anh ta cảm thấy mơ màng và ngỡ rằng cuộc gặp gỡ đó như một giấc mộng vẫn ám ảnh tâm trí anh ta. Chừng nào giấc mơ chưa thành hiện thực, anh ta vẫn chưa thể ngủ yên."
"Không thể quên đi nỗi niềm nhớ thương/ Vẫn còn mơ màng về người tiên nữ mới: tâm trí của chàng trai vào thời điểm này chỉ có hình bóng của cô gái, nỗi nhớ ấy vẫn quấn quanh và anh ta sợ rằng đó có thể là một tiên nữ mới khiến anh ta không thể yên tĩnh."
Những biện pháp ngôn ngữ như ẩn dụ, điển cố và điển tích đã làm cho đoạn thơ trở nên sống động hơn, mô tả rõ ràng nỗi nhớ thương cay đắng trong lòng chàng trai si tình.
Tú Uyên luôn mang theo nỗi buồn, sầu thương trong trái tim khi nhớ về Giáng Kiều, ngay cả nhìn những vật thể tự nhiên cũng mang đầy nỗi nhớ thương: -
Truyện thơ Nôm đóng một vai trò quan trọng trong nền văn học Việt Nam, thể hiện tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Bên cạnh những tác phẩm như “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), “Truyện Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) thì “Bích Câu kì ngộ” cũng là một tác phẩm truyện thơ Nôm đặc sắc, kể về mối tình giữa chàng Tú Uyên và tiên nữ Giáng Kiều. Đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” cho thấy tâm trạng của Tú Uyên sau khi gặp được tiên nữ ở hội chùa Ngọc Hồ.
Khác với một số truyện thơ Nôm lấy chủ đề/bối cảnh Trung Hoa, “Bích Câu kì ngộ” là một truyện thơ Nôm thuần Việt. Cái tên “Bích Câu” trong nhan đề chính là một địa chỉ văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Nơi đây thường được các vua chúa ghé thăm, tập trung nhiều văn nhân sĩ tử. Đọc tác phẩm, ta có thể bắt gặp những câu thơ miêu tả thành Thăng Long đẹp như thơ như họa.
“Xanh xanh dãy liễu, ngàn thông
Cỏ đan lối mục, rêu phong dấu tiều
Một vùng non nước đìu hiu
Phất phơ gió trúc, dặt dìu mưa hoa
Triều Lê đương hội thái hòa
Có Trần công tử tên là Tú Uyên”
Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp bao giờ cũng là phông nền hoàn hảo để các nhân vật xuất hiện. Chàng Tú Uyên thực chất là một thư sinh nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Nhờ siêng năng đèn sách mà chàng cũng trở thành một văn nhân có tiếng ở Bích Câu. Khi đi chơi hội xuân ở chùa Ngọc Hồ, chàng gặp được người thiếu nữ đẹp tuyệt trần nhưng chưa kịp ngỏ lời làm quen thì cô gái đã biến mất. Từ đó, Tú Uyên đem lòng tương tư người đẹp. Đây là khởi nguồn cho mối tình đẹp giữa Tú Uyên - Giáng Kiều về sau.
“Lần trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên
Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!”
Câu thơ đầu của đoạn trích miêu tả cảnh tượng Tú Uyên ra về khỏi hội chùa. Ánh trăng sáng chiếu rọi từng bước chân chàng thư sinh si tình. Cách nói “ngơ ngẩn ra về” cho thấy Tú Uyên vừa bước đi vừa không ngừng nhớ nhung cô gái. Chàng choáng ngợp bởi vẻ kiều diễm của nàng đến mức như thẫn thờ như một kẻ mất hồn. Ca dao dân gian xưa cũng từng dùng từ “ngơ ngẩn” để diễn tả nỗi nhớ người yêu:
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai?”
Nỗi nhớ người yêu, người tình trong mộng bao giờ cũng là nỗi nhớ da diết, cháy bỏng nhất. Có biết bao tác phẩm văn học từ văn học dân gian đến văn học viết đã diễn tả nỗi nhớ ấy nhưng nỗi nhớ của chàng Tú Uyên vẫn mang màu sắc riêng ấn tượng. Sự nhớ nhung ấy không chỉ theo bước chàng trên đường về mà còn trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí, ảnh hưởng đến những sinh hoạt thường ngày của chàng. Nếu “Truyện Kiều” có chàng Kim Trọng “Bút se ngọn thỏ, tơ trùng phím loan” thì “Bích Câu kì ngộ” cũng có một Tú Uyên “Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên”. Tú Uyên si mê Giáng Kiều đến mức đèn dầu đã cạn mà không buồn thắp lên, trằn trọc đêm khuya không thể ngủ. Hai từ láy “canh cánh” và “quanh quẩn” gợi liên tưởng nỗi nhớ bao trùm khắp không gian, lúc nào cũng thường trực bên cạnh con người. Nỗi nhớ bỗng trở thành một vật hữu hình, khiến cõi lòng Tú Uyên nặng trĩu. Từ chỗ không thể yên giấc, Tú Uyên còn tưởng tượng ra dường như Giáng Kiều vẫn đang quanh quẩn đâu đây. Hình bóng nàng tiên vừa gần vừa xa, biết khi nào mới được gặp lại?
Câu thơ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của đại thi hào Nguyễn Du rất thích hợp trong hoàn cảnh của Tú Uyên. Nỗi nhớ được đẩy lên một mức độ cao hơn khi Tú Uyên nhìn đâu cũng thấy mênh mang nỗi nhớ:
“Bướm kia vương lấy sầu hoa
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh”
Cánh bướm lượn, bông hoa thắm trong vườn sao mà buồn bã, u sầu đến thế? Cảnh vật nhuốm màu tâm trạng. Những hình ảnh hoa, bướm giàu tính ước lệ tượng trưng diễn tả một tình yêu, nỗi nhớ vừa đẹp đẽ, xốn xang lại vừa man mác buồn. Từ “buồn tênh” bộc lộ một cách trực tiếp tâm trạng của Tú Uyên, cho thấy sự trào dâng của niềm nhớ thương.
Dường như ý thức được sự xâm chiếm của nỗi nhớ trong tâm hồn, Tú Uyên bèn tìm đến những hoạt động khác để xua tan nỗi nhớ. Điệp từ có được lặp lại bốn lần, tạo hành điệp khúc nhớ nhung dâng lên tầng tầng lớp lớp, đồng thời diễn tả sự cố gắng, loay hoay của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ:
“Có khi gảy khúc đàn tranh
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân
Cầu hoàng tay lựa nên vần
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào”
Chàng gửi gắm nỗi lòng mình vào tiếng đàn tranh tha thiết, mong ước nàng sẽ nghe thấy tiếng đàn mà hiểu được tấm chân tình. Thế nhưng, nghịch lí thay, càng chơi đàn thì Tú Uyên lại càng thấy nhung nhớ. Từ láy “ngao ngán” thể hiện rõ tâm trạng chán chường, ủ ê khi không có người đẹp kề bên. Tác giả sử dụng điển tích điển cố về khúc đàn cầu hôn của Tương Như - Văn Quân để diễn tả chân thực, sâu sắc tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Dù chỉ mới gặp nàng thoáng chốc nhưng tình yêu dành cho nàng có thể sánh với tình yêu đi vào sử sách thời Hán. Tiếng đàn của ta cũng giống như tiếng đàn Tương Như gảy thời xưa, liệu nàng có thấu tỏ lòng này như nàng Văn Quân đã làm?
Hết gảy đàn, Tú Uyên lại tìm đến men rượu cho khuây khỏa:
“Có khi chuốc chén rượu đào
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy
Hơi men không nhấp mà say
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình”
Động từ “chuốc” cho thấy Tú Uyên không chỉ nhấp môi một, hai chén rượu mà đã uống rất nhiều. Bữa tiệc chưa tàn mà chén rượu kết giao đã đầy. Tú Uyên muốn uống chén rượu kết giao với Giáng Kiều. Hóa ra chàng thư sinh không say rượu mà là say tình, say đắm người con gái đẹp. Câu thơ “Hơi men không nhấp mà say/Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình” đã biểu lộ một cách thật độc đáo niềm tương tư này. Nỗi nhớ da diết, đằm sâu, biến thành hương dâng lên ngào ngạt. Càng uống rượu chàng lại càng nhớ nhung hơn. Là chàng nghe thấy trong hơi men có cả tiếng của nàng hay chàng muốn mượn rượu để ngỏ lời tỏ tình với nàng? Dù ta hiểu theo nghĩa nào thì nỗi nhớ trong câu thơ vẫn thật nồng nàn!
“Có khi ngồi suốt năm canh
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương
Lặng nghe những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn”
Nỗi nhớ mới xuất hiện gần đây mà đã khiến toàn bộ không gian, thời gian của chàng. “năm canh” là khoảng thời gian dài đằng đẵng, Tú Uyên đã ngồi ngóng đợi tình yêu của mình lâu đến mức tiếng mõ quyên đã điểm, chuông kình đã vang lên mà chẳng hay. Trong khung cảnh ấy, chàng bỗng nghe thấy “những tiếng đoạn trường”. “tiếng đoạn trường” ở đây chính là tiếng khóc của ai đó vang lên thê thiết, tưởng như đau đến đứt từng khúc ruột. Tú Uyên nghe âm thanh ấy mà nhớ đến điển tích sông Thương. Khi Vua Thuần mất, hai người vợ Nga Hoàn và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương. Người xưa còn lấy sông Tương để đo lòng nỗi nhớ:
“Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bãi không bờ
Đầu sông chàng đợi chàng chờ
Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông”
Có thể thấy, không chỉ những người phụ nữ mà cả nam nhân cũng bị nỗi nhớ dày vò. Tú Uyên đã lấy hình ảnh sông Tương - một biểu tượng của nước mắt, nỗi nhớ, sự chia ly, chờ đợi để diễn đạt tình cảm của mình dành cho Giáng Kiều. Căn bệnh tương tư chẳng chừa một ai chính là như thế! Ngọn lửa tình “dễ đốt” nhưng khi bùng lên mạnh mẽ thì khó lòng dập tắt!
“Có đêm ngắm bóng trăn tàn
Tiếng chim hót sớm, trận nhàn bay khuya”
Tú Uyên ngồi ngắm trăng, hy vọng tìm được chút tin tức của Giáng Kiều trong nỗi nhớ bủa vây, giam hãm. Trăng của chàng không phải là “Vầng trăng vằng vặc giữa trời” của lời thề nguyền chung thủy, biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi tròn đầy mà là “bóng trăng tàn” đơn chiếc, lẻ loi. Điệp ngữ “Có khi” kết hợp với cặp từ đối lập “sớm” - “khuya”gợi khoảng thời gian tuần hoàn, đóng kín và tâm trạng bí bách, tù túng của con người.
Cuối cùng, sau khi đã hướng ra bên ngoài cảnh vật, Tú Uyên quay trở lại đối diện với chính mình:
“Ngổn ngang cảnh nọ tình kia
Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư”
“Ngổn ngang” tức là tâm trạng bẽ bàng, buồn bã vì nhìn đâu cũng thấy nhớ thương. Nhớ nhung, yêu thương là thế nhưng hiện thực lại là “Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!”. Vì không có người để giãi bày nên nỗi nhớ thành một khối đóng lại trong tâm hồn Tú Uyên. Chàng hồi tưởng lại khung cảnh vui xuân và thấm thía tình cảnh cô đơn, sầu bi hiện tại. Câu thơ cuối vừa thể hiện tình cảm cháy bỏng vừa hư lời trách móc yêu. Cùng chung niềm vui nô nức ngày hội xuân, cớ sao giờ đây chỉ một người ôm tương tư?
Như vậy, đoạn thơ đã diễn tả nỗi nhớ đa tầng, nhiều cung bậc của chàng thư sinh Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều. Nỗi nhớ ấy là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi. niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Để diễn tả chân thực, tinh tế cảm xúc thiêng liêng ấy, tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hệ thống các từ láy giàu tính biểu đạt, các điển tích điển cố, những hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng.
Viết về tình yêu, nỗi nhớ giữa những các văn nhân tài tử với những bậc quốc sắc thiên hương không phải là điều hiếm trong văn học trung đại nhưng “Nỗi niềm tương tư” vẫn mang màu sắc riêng độc đáo. Quả thực, “Mối tình Tú Uyên - Giáng kiều tuy diễm tình nhưng trong sáng lại đậm tình nghĩa gia đình. Truyện tiên mà lại thực, góp phần giáo dục và làm tươi mát tâm hồn niên thiếu.”