Bài tham khảo số 3
Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên của tâm hồn con người”. Ở đó, những nỗi niềm sâu kín của trái tim mỗi thi nhân được thể hiện một cách độc đáo. Bởi vậy, ta có dịp bắt gặp nỗi nhớ niềm thương da diết của nhà thơ Tố Hữu gửi gắm tới quê hương cách mạng trong khổ bốn trích trong bài thơ “Việt Bắc”.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...”
Năm 1954, khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết mở ra trang sử mới của cách mạng dân tộc. Các cơ quan trung ương Đảng dời quê hương cách mạng Việt Bắc - nơi cưu mang, che chở họ trong những năm kháng chiến để trở về xuôi tiếp quản thủ đô. Bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi là chất xúc tác chắp đôi cánh cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ. Giữa những năm tháng kháng chiến khói lửa, văn học trở thành vũ khí động viên tinh thần yêu nước của nhân dân, nhưng tiếng thơ Tố Hữu không giáo điều, đoạn thơ thấm đẫm nỗi nhớ người ở lại được gợi nhắc bởi người ra đi.
Thể thơ lục bát mềm mại, giọng điệu thiết tha, tâm tình cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc thường đi về trong những câu hát giao duyên trong buổi tình tự, hẹn hò, trai gái mở hội lòng gợi bầu không gian đậm chất trữ tình. Cụm từ “mình - ta” cũng trở đi trở lại trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng tư bàn việc chung đã mềm hóa nội dung chính trị. Ân nghĩa sâu nặng của đồng bào miền núi - cưu mang, che chở các chiến sĩ suốt mười lăm năm, được khẳng định như lời thề son sắt, mãi vẹn nguyên “đinh ninh, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Mình” với “ta” tuy hai mà một kết hợp cách nói bình dị, sáng tạo nhắc nhớ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của ông cha làm câu thơ giàu nhạc tính.
Điệp từ “nhớ” gợi nỗi nhớ thương khôn nguôi đậm tô tình đồng chí, nghĩa đồng bào tạo nhịp chảy xuyên suốt dòng kỉ niệm ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” đậm hơi thở dân gian:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Nhà thơ mượn tình yêu đôi lứa thân thiết, đằm thắm để nói tình đồng đội với nhân dân một cách tự nhiên, thấm thía. Không gian người cất bước nhớ tới đều thấp thoáng hình bóng của người ở lại, bao trùm đồi núi, lưng nương, khoảng thời gian khi trăng lên, lúc chiều xuống. Nơi đây đất đã hóa tâm hồn người đi xuôi. Hình ảnh luyến lưu người ra đi còn là bản làng, sương, khói - cuộc sống êm đềm, mộng thơ của chốn núi non xa xôi:
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Khắp mọi nơi đều để lại sợi nhớ, sợi thương hình dáng “người thương đi về”. Trong không gian ấm cúng của ánh lửa, giữa thời gian “sớm khuya” gợi sự tảo tần, bền bỉ, sự bền chí, vững lòng trong suốt cuộc chiến đấu. “Người thương” vừa có thể là chiến sĩ, đồng bào cùng lý tưởng, có thể là người mẹ, cô em gái… hình tượng gợi nhiều chiều liên tưởng, mà không khô khan. Tác giả còn liệt kê một số địa danh cụ thể “Ngòi Thia, sông Ðáy, suối Lê” - đó là những không gian vĩnh hằng, vơi đầy con nước như nỗi lòng đong đầy của người đi và kẻ ở những ngày tháng đậm nghĩa tình cùng trải qua bao đắng cay, ngọt bùi. Chính gian khổ đã trở thành chất lửa thử vàng để tình nghĩa quân dân cá nước thêm gắn bó, bền chặt, vượt lên mọi rào cản khoảng cách và thời gian để “ta” đi ta nhớ, “mình” ở mình chẳng thể quên. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Bên cạnh những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.
Nhà thơ dụng công khắc họa nỗi nhớ niềm thương của cán bộ miền xuôi tới đồng bào miền núi, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ rung động vào lòng người. Bài thơ “Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kỳ gian khó mà huy hoàng của dân tộc.