Bài văn phân tích tác phẩm "Số phận con người" số 8
Mi-khai-in Sô-lô-khốp (1905 – 1984), nhà văn Nga được Giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1965 và được coi là một trong số các nhà văn lớn nhất thế giới thế kỉ XX. Sức mạnh nghệ thuật của tác phẩm Sô-lô-khốp tập trung ở chỗ: ông đã trình bày những sự thật vĩ đại, hoành tráng mà cũng đầy khắc nghiệt và cay đắng của cuộc cách mạng vô sản, của cuộc chiến tranh giữ nước, của cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Xô viết. Chính sự thật đó đã chinh phục hàng triệu độc giả vì nó được viết ra với mục đích cao cả: “Nói với con người sự thật, đôi khi khắc nghiệt, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người niềm tin ở tương lai… Tôi mong muốn tác phẩm của mình giúp cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tính tình yêu đối với con người, khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người” (Lời phát biểu trong lễ trao Giải Nô-ben, năm 1965).
Truyện ngắn Số phận con người (1957) chứa dựng tầm khái quát sử thi với dung lượng hiện thực và tư tưởng sâu rộng, lớn lao, kết tinh những dồn nén, suy tư của nhà văn về chiến tranh, về số phận và sức mạnh tinh thần của con người, về tính cách Nga. Tác phẩm là câu chuyện về một con người bị số phận khắc nghiệt nhấn xuống chìm nghỉm đã kiên cường đứng vững bằng tình yêu thương và lòng dũng cảm, đã gieo vào lòng người đọc niềm tin, hi vọng vào con người, vào cuộc sống sau bao đau thương, mất mát trong chiến tranh. Với nghệ thuật kể chuyện giản dị, ngắn gọn mà chứa đựng một chiều sâu hiện thực và tâm lí nhân vật, truyện ngắn đã tác động mạnh mẽ, sâu xa, đầy cảm động tới trí tuệ và trái tim người đọc.
Cuộc đời nhân vật An-đrây Xô-cô-lốp phản chiếu một trang sử hào hùng, bất khuất mà cũng thấm đẫm nước mắt của đất nước và con người Xô viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, chống phát xít Đức. Số phận bình thường của anh không tách rời số phận lịch sử của đất nước và nhân dân với tất cả hào quang chiến thắng và gánh nặng của thương đau. Đoạn trích kể về đoạn đời sau chiến tranh của Xô-cô-lốp. Hoàn toàn trơ trọi trên cõi đời, tại một thành phố xa lạ, Xô-cô-lốp gặp bé Va-ni-a cũng lang thang, cô độc như chính mình. Tình thương trỗi dậy, Xô-cô-lốp nhận cậu bé làm con nuôi và dồn sức lo lắng trông nom em.
Số phận, là từ chỉ phần hoạ phúc, sướng khổ, thường là hoạ nhiều hơn phúc, dành riêng cho cuộc đời mỗi người ngoài ý muốn của họ. Chiến tranh đã tạo nên bao số phận bất hạnh, khổ đau. Chiến tranh nổ ra, Xô-cô-lốp từ biệt vợ con ra trận. Sau một năm chiến đấu và bị thương, anh bị bắt làm tù binh. Trải bao khổ cực trong tù, Xô-cô-lốp vẫn giữ vững khí phách anh hùng của người lính Xô viết. Gặp dịp may được lái xe cho bọn Đức, anh trốn thoát, về hậu phương, anh mới biết tin vợ và hai con đã chết vì bom từ hai năm trước. Con trai lớn của anh cũng là một chiến sĩ Hồng quân, nhưng đã hi sinh đúng ngày chiến thắng trên đất Đức. Chắc chắn số phận buồn đau không chi lựa chọn một mình Xô-cô-lốp mà còn vùi dập bao người. Chiến tranh đã tước đoạt tất cả những gì quý giá nhất của họ: quê hương, gia đình, tình thương yêu, niềm hi vọng. Hết chiến tranh, trước mặt họ là khoảng không trống rỗng, khủng khiếp: không nhà cửa, không vợ con, không niềm hi vọng. Từng bị hành hạ vô cùng dã man trong lao tù của phát xít Đức, Xô-cô-lốp vẫn kiên cường đứng vững.
Nhưng giờ đây, chạm mặt với sự thật tàn nhẫn nhất: chôn trên đất người, đất Đức niềm vui sướng và hi vọng cuối cùng, tinh thần và thể chất dường như đổ sụp, anh trở nên như người mất hồn, trong anh như có cái gì vỡ tung ra. Dường như anh đã phải uống trọn nỗi đau cùng cực của kiếp người. Xô-cô-lốp không dám về thành phố quê hương, Vô-rô-nhe-giơ. Có lẽ nơi ấy giữ quá nhiều kỉ niệm êm đềm về gia đình, vợ con, mà bây giờ anh không dám đối mặt. Anh gần trở thành kẻ lang thang, ăn nhờ ở đậu, chìm vào rượu để trốn chạy quá khứ, tiêu sầu trong hiện tại. Nỗi buồn đau, mất mát in đậm trên gương mặt anh (cặp mắt nguội lạnh lúc nào cũng buồn thê thảm khiến người khác không dám nhìn thẳng vào), vò xé trái tim anh (trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ), tàn phá sức khoẻ anh (quả tim tôi đã rệu rã lắm rồi… có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, tôi chỉ sợ lúc nào đó đang ngủ mà tôi chết luôn…).
Chiến tranh không chỉ nhấn chìm con người dày dạn, kiên cường như Xô-cô-lốp mà ngay cả bé Va-ni-a thơ ngây mới bốn, năm tuổi, cũng vì chiến tranh (bố chết ở mặt trận, mẹ chết bom) mà trơ trọi, đói khát, lang thang (ai cho gì ăn nấy, bạ đâu ngủ đấy, quần áo rách bươm như xơ mướp, bẩn như ma lem). Dù đang tuổi thơ dại nhưng chú bé cũng ý thức được nỗi bất hạnh của mình qua thái độ, đôi lúc lặng thinh, tư lự và những tiếng thở dài như khỉa vào tim Xô-cô-lốp.
Chiến tranh đã qua đi nhưng số phận vẫn tàn nhẫn với Xô-cô-lốp. Tâm hồn anh vẫn luôn bị giày vò bởi những kí ức ngày hôm qua. Cứ tưởng những gì yêu quý nhất đã mãi mãi mất đi là nỗi khổ đau nhất, vậy mà kí ức về nó lại là những vết thương nhức nhối, không ngừng rỉ máu trong hiện tại. Xô-cô-lốp nhiều đêm không ngủ : hầu như đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy những người thân quá cố. Trong giấc chiêm bao của hiện tại, cũng như ngày xưa trong nhà tù phát xít, anh luôn mơ thấy mình trò chuyện với vợ con qua hàng rào dây thép gai. Cái hàng rào như ranh giới vĩnh viễn ngãn cách hai cõi đời tự do và tù đày, sống và chết, tồn tại và hư vô, mà trước đây cũng như bây giờ anh khống bao giờ vượt qua được.
Và điều rất kì lạ này, chính Xô-cô-lôp cùng phải thú nhận là kì lạ : ban ngày bao giờ anh cũng trăn tĩnh được, không hở ra một tiếng thở dài, một lời than vãn, nhưng ban đêm thức giấc thì gối ướt dẫm nước mắt. Ta bàng hoàng vì những lời thú nhận đau đớn, về những giọt nước mắt cứa con người từng trải và dày dặn như Xô-cô-lôp. Thời gian không thể chữa lành vết thương trong trái tim anh. Ban ngày, nhờ nghị lực và lòng dũng cảm, Xô-cô-lôp vẫn giữ được bình tĩnh. Còn những giọt nước mắt âm thầm, vô thức chảy trong đêm diễn tả nỗi dau lẩn sâu vào từng nếp gấp của trái tim anh, trái tim mang những buổn thương mà ý chí cũng không sao xoá mờ, không tài nào kiểm soát nổi. Có nghĩa là, quá khứ không hé mất đi mà trở thành nỗi dớn dau mãi mãi làm nhức nhối tâm hồn Xô-cô-lốp.
Đâu chỉ mình Xô-cô-lốp đã từng khắc khoải chờ mong ngày hội ngộ với gia đình. Va-ni-a bé bỏng cũng thổ lộ với bố Xô-cô-lốp: Con biết thế nào bố cũng tìm thấy con mà ! Thế nào cũng tim thấy mà ! Con chờ mãi mong được gặp bố ! Dù biết bố đã hi sinh ở mặt trận, nhưng Va-ni-a vẫn mãi mãi trông ngày gặp bố. Và đâu chỉ mình Xô-cô-lốp bị quá khứ ám ảnh, giày vò, kí ức thơ dại của Va-ni-a cũng đôi lúc trở về, thỉnh thoáng lại vụt sáng như quầng sáng mùa hạ, soi sáng tất cá trong chốc lát rồi vụt tát. Điều đó bộc lộ bằng những câu hỏi bất ngờ của Va-ni-a: Bố ơi, cái áo bành tô bằng da của bố đâu rồi?… Thế tại sao bố lại tìm con lâu thế?,… Điều đó khiến Xô-cô-lốp lo ngại, bới những kí ức ấy rất có thể sẽ lại là những vết thương, một ám ảnh buồn đau sống mãi trong tám hồn Va-ni-a nếu em nhớ lại sự thực và ý thức được chính xác thân phận mình.
Những niềm đau kí ức như thế mãi mãi còn loé sáng, làm đau đớn đời sống tinh thần hiện tại. Những hi sinh, mất mát do chiến tranh đem tới rõ ràng không thể chỉ tính trên phương diện vật chất mà phải đo bằng những vết thương mãi nhức nhối trong tâm hồn những người đi qua chiến tranh, kể cả trẻ thơ ! Nỗi buồn đau buộc hai bố con Xô-cô-lốp cuốc bộ khắp nước Nga: Nổi đau buồn không cho tôi ở lâu mãi một chỗ được. Họ lại trở thành kẻ lang thang ngay trên chính quê hương mình ! Xô-cô-lốp vẫn hi vọng một lúc nào đó, lòng anh nguôi bớt nỗi buồn. Nhưng có lẽ điều ấy mãi mãi vẫn chỉ là hi vọng.
Cỏ thể nói, đây là cái giá đăt nhất của chiến thắng: những đau khổ tột cùng do chiến tranh đem lại. Lên án chiến tranh, nhìn thẳng vào hi sinh, mất mát bên cạnh việc ngợi ca khí phách anh hùng của nhân dân xô viết là một cách nhìn mới về chiến tranh của Sô-lô-khôp. Đất nước Xô viết đã mất hai mươi triệu người trong cuộc chiến tranh này mà nỗi đau mênh mông ấy ở đây mới chỉ được tỏ bày qua hai số phận!
Trước nỗi đau số phận ấy, Xô-cô-lốp tìm đến lãng quên bằng rượu. Anh bắt đầu có thói quen vào quán làm một li rượu sau một ngày lao động cật lực: Phải nói rằng tôi đã quá say mê cái món nguy hại ấy. Lời tâm sự bộc lộ sự bế tắc và tuyệt vọng. Biết là nguy hại mà Xô-cô-lốp vẫn cứ lao vào. Dường như anh đã không thê tránh được lối mòn tự huỷ hoại được báo trước ấy. Nhưng khi gặp Va-ni-a, một số phận còn đáng thương hơn (bởi mới có bốn, năm tuổi mà em đã thành kẻ bơ vơ, trơ trọi bên lề cuộc đời) thì tình cảm và trách nhiệm của một người cha, tình thương mến trẻ thơ - một tình cảm bản năng của mọi tấm lòng trung hậu, đã thức dậy trong Xô-cô-lốp. Trái tim tưởng chừng hoàn toàn tan nát, chai sạn vì đau khổ của anh lại đập lại những nhịp đập xúc động, cảm thông, lại chứa chan tình thương yêu, niềm trắc ẩn.
Hình ảnh thằng bé mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc, bụi bặm, bẩn như ma lem, đầu tóc rối bù nhưng cặp mất cứ như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm, làm anh thấy thích, thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó. Cái nhìn thương mến trẻ thơ một cách tự nhiên, bột phát, bộc lộ qua cách anh vui vẻ làm quen với Va-ni-a, rủ chú bé đi ăn trưa với những lời lẽ giản dị. Nhạy cảm với nỗi đau trong trái tim bé bỏng cũa Va-ni-a, Xô-cô-lốp quyết định: Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được.
Điều đó có nghĩa là anh cũng tự ý thức rằng mình đang chìm nghịm với nỗi đau của mình bên cạnh một cuộc đời bất hạnh khác. Quyết định nhân ái đó đã thực sự nâng đỡ đời anh: Ngay lúc ấy, tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng. Nhẹ nhõm và bừng sáng, những từ ấy không chỉ diễn tả phút giây hiện tại mà còn bộc lộ cả một thực trạng trước đó của hồn anh: u uất, tối sầm, nặng trĩu buồn đau. Tâm hồn anh trở nên nhẹ nhõm bới anh đã tìm được lẽ sống của mình: thương yêu, đùm bọc kẻ bất hạnh khác là liều thuốc giúp khuây khoả nỗi khổ của mình.
Niềm vui bất ngờ của tình cảm cha con không chỉ thổi luồng gió mới vào tâm hồn bé thơ của Va-ni-a, khiến cậu bé nhảy chồm chồm lên, ríu rít, líu lo vang rộn như con chim chích mà còn làm hồi sinh trái tim đã chai cứng vì đớn đau của Xô-cô-lốp: mắt mờ đi, hai tay lẩy bẩy, tôi thấy lòng vui không tài nào tả xiết, trái tim tôi đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Sức mạnh của tình thương đã sưởi ấm số phận của hai con người côi cút, hai hạt cát cô đơn bị bão tố chiến tranh thổi bạt.
Tình thương Va-ni-a đã cứu vớt linh hồn Xô-cô-lốp, giúp anh trở về với cuộc sống bình thường. Khi cậu bé hồn nhiên, tin cậy gọi anh là bố, quấn quýt lấy anh không rời và rúc vào nách anh như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ, thì lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm anh mới được ngủ một giấc yên lành. Có Va-ni-a, anh đã lấy được phần nào bóng dáng cuộc sống gia đình: có trẻ thơ, trách nhiệm, niềm hi vọng, những gì tưởng đã mất hết trong chiến tranh. Một sinh linh bé bỏng ngây thơ là Va-ni-a lại là chỗ dựa tinh thần cho con người dày dạn, kiên cường như Xô-cô-lốp. Quả là một nghịch lí, nhưng cuộc đời có biết bao điều kì lạ như vậy!
Nhận Va-ni-a làm con nuôi, Xô-cô-lốp tự nguyện gánh lấy những trách nhiệm nặng nề: săn sóc cái ăn, cái mặc, giấc ngủ, rồi mai đây còn việc học hành,… Những lo toan tỉ mỉ mà bàn tay đàn ông không thành thạo. Nhưng chính sự chăm sóc vụng về ấy (mua quần dạ giữa mùa hè, chỉ cho con ăn bánh mì và trứng,…) làm ta cảm động vì ẩn đằng sau đó là một tình thương chân thành, mộc mạc, gốc rễ của một tấm lòng nhân hậu sâu xa.
Nhưng điều khó khăn nhất đối với Xô-cô-lốp là gắng sao không làm tổn thương đến trái tim bé bỏng của Va-ni-a bằng cách giấu đi những sự thật về cuộc đời cậu bé và của chính mình. Sự thật ấy, khi lớn lên em sẽ biết, nhưng bây giờ em cần sống một cách hồn nhiên, không bị quá khứ ám ảnh. Xô-cô-lốp phải giấu đi những giọt nước mắt đàn ông nóng bỏng, hiếm hoi, những giọt nước mắt của con người bạc đầu vì chiến tranh để sống và nuôi nấng Va-ni-a. Nhờ nghị lực và trách nhiệm ấy, anh đã vượt lên những khúc mắc của đời sống hàng ngày, coi những rắc rối (như bị tước bằng lái xe một cách oan uổng) cũng chỉ là những điều vặt vãnh, không đáng bận tàm.
Hai số phận đau khổ dựa vào nhau, nâng đỡ nhau: Va-ni-a bé bỏng cần có bàn tay cứng cáp của Xô-cô-lốp cưu mang, chở che; còn Xô-cô-lốp, tình thương và trách nhiệm khiến anh bình tĩnh lại, cố đứng thẳng dậy, vươn mình vượt qua số phận, để trong anh thức dậy một niềm hi vọng lớn: làm việc và chờ đợi một ngày cháu Va-niu-ska lớn lên. Ẩn sâu trong con người Xô-cô-lốp là một tính cách Nga khiêm nhường mà quảng đại, dũng cảm mà nhân ái. Các hành vi của Xô-cô-lốp, từ lúc ở chiến trường, ở trại tù binh và trong hiện tại đều được chi phối bởi quan niệm đúng đắn về phẩm giá và trách nhiệm con người. Xô-cô-lốp từng khẳng định: anh là thằng đàn ông, anh là thằng lính chính là để chịu đựng hết mọi thứ, gánh vác hết mọi thứ khi cần thiết. Điều đó giúp anh ứng xử trong mọi trường hợp như một con người chân chính. Cuộc sống lao động, ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc, nhân dân, đồng đội đã giúp Xô-cô-lốp, dù chỉ là một người Nga bình thường, giản dị nhưng vẫn mang dáng vóc cao cả. Tinh thần dũng cảm và lòng nhân hậu, hai nét đặc biệt ấy đã giúp Xô-cô-lốp vượt qua thứ thách của số phận.
Hình ảnh cuối cùng của cha con Xô-cồ-lốp, một già, một trẻ, một dày dạn, một thơ ngây, cầm tay nhau đi trên con đường vạn dặm mà chưa biết đâu là bến đỗ cuối cùng, đã khiến trái tim nhạy cảm trước nỗi đau đồng loại của tác giả bị bóp nghẹt vì đau đớn, vì thương cảm cho cả hai số phận, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ. Bất chấp số phận khắc nghiệt, họ sẽ dựa vào nhau để sống. Có thể nói, con đường đời của Xô-cô-lốp là hình ảnh nhân dân Nga bất chấp đau thương của chiến tranh, quyết vươn lên để tồn tại và phát triển.
Trong truyện có hai người kể chuyện: người kể - nhân vật và người kể - tác giả. Sự luân phiên và bổ sung điểm nhìn trần thuật của hai nhân vật này giúp cho chất trữ tình nhân vật và chất trữ tình tác giả hoà quyện, làm tăng sức hấp dẫn của thiên truyện và niềm cảm thông của người đọc trước số phận con người. Với những lời lẽ giản dị, chân thành, người kể - nhân vật (Xô-cô-lốp) đã bộc lộ một tâm hồn đau khổ nhưng đầy cương nghị, dũng cảm. Trong lời tâm sự, anh vừa nói với người nghe, vừa nói với chính mình, vừa thuật kể, vừa tự phân tích những cảm giác của mình : Về đâu bây giờ? Chã nhẽ lại về Vô-rô-ne-giơ?
Không được! Tôi thấy lòng vui không lời nào tả xiết,… Anh chùn thành thú nhận những điều không phải ai cũng dễ bộc lộ: những giọt nước mắt nóng hổi sôi lên ở mặt tôi, ban đêm thức giấc thì gối ướt đấm nước mắt. Quá khứ và hiện tại đan cài trong những lời tâm sự. Đặc biệt, chính những sự thật về cuộc đời, về trạng thái tâm hồn, về những nghĩ suy và tình cảm được miêu tả qua lời kể, lời phân trần, bộc bạch của Xô-cô-lốp lại có sức lôi cuốn mạnh mẽ, sâu xa. Chất trữ tình man mác, sâu lắng bao trùm câu chuyện kể.
Còn lời kể của tác giả? Ở đây chất trữ tình, tính chính luận hoà quyện làm lời văn tràn đầy âm hưởng bi tráng và mãnh liệt. Tác giả nồng nhiệt lên án chiến tranh, bày tỏ niềm cảm thương với hai số phận, bình luận vể ý chí dũng cảm và lòng nhân hậu của tính cách Nga. Lời trữ tình ngoại đê cuối tác phẩm là những lời văn mạnh mẽ mà lắng đọng suy tư, chứa chan niềm tin và hi vọng vào sức mạnh tinh thần của con người. Lúc phia tay, tác giả nhìn theo hai cha con Xô-cô-lốp và bày tỏ nồng nhiệt một niềm tin mãnh liệt vào tính cách Nga. Ông hi vọng rằng, lớn lên bên con người kiên cường, nhân hậu như Xô-cô-lốp, chú bé mồ côi Va-ni-a sẽ sống xứng đáng như một con người, có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi.
Truyện ngắn Số phận con người, còn được gọi là truyện ngắn - sử thi hay tiểu anh hùng ca, mang sức khái quát hiện thực lớn lao ; bởi thông qua số phận một con người, một thời đại của đất nước Xô viết được tái hiện. Câu chuyện về số phận một con người được lí giải trong mối quan hệ với số phận lịch sử của nhân dân Xô viết với hai chủ đề xuyên thấm : anh hùng và bi kịch. Cuộc đời bình thường của một người lính, những gian khổ và đau buồn trong chiến tranh đã là âm hướng về ý chí anh hùng, lòng dũng cảm, sức chịu đựng và sức mạnh tinh thần ghê gớm của con người Nga.
Số phận con người chứa đựng một nội dung sâu sắc về triết học và thẩm mĩ. Đó là nội dung mang ý nghĩa nhân loại : sức mạnh tinh thần có khả năng cứu vớt con người và nhờ nó con người có thể vuợt qua sự tàn phá, huỷ diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành. Đó là hình ảnh con người vừa mang cá tính sinh động, vừa kết tinh những phẩm chất tốt đẹp nhất của cộng đồng. Hình tượng Xô-cô-lốp, do đó trở thành biểu tượng cho số phận và vẻ đẹp tinh thần của con người qua những cơn bão táp lịch sử của thế kỷ XX.