Top 20 Bản nhạc nổi tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc thế giới
Có ai đó đã nói rằng: Khi ngôn ngữ trở nên bất lực thì âm nhạc lên tiếng. Quả đúng như vậy. Âm nhạc có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người và cũng ... xem thêm...chỉ có con người mới có khả năng cảm thụ âm nhạc. Âm nhạc tạo nên những cung bậc tình cảm rất tinh tế, thuần hóa tâm thức và đưa con người trở về với nhân cách vốn có của mình. Có những bản nhạc làm cho ta cảm thấy hạnh phúc; có những bản nhạc tạo ra sự sung mãn về tâm hồn, nâng cao ý chí nghị lực trong cuộc sống; có những bản nhạc nếu nghe thường xuyên có khả năng chữa bệnh, giảm thiểu căng thẳng và kích thích não bộ phát triển,... Bạn đã từng biết đến và được nghe những bản nhạc nổi tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc của thế giới chưa? Hãy cùng toplist nghe và cảm nhận nhé.
-
"Symphony 5" - Beethoven
"Symphony 5" (Bản giao hưởng số 5) là bản giao hưởng nổi tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc thế giới. Tác giả của bản giao hưởng này chính là thiên tài âm nhạc người Đức: Ludwig van Beethoven (1770-1827). Ông là hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ âm nhạc cổ điển sang thời kì âm nhạc lãng mạn. Bản giao hưởng số 5 hay còn gọi là bản giao hưởng "định mệnh" được ông sáng tác vào năm 1808 khi ông đang ở độ tuổi 37 đầy sung sức về tài năng nhưng đáng tiếc con người tài hoa ấy lại bạc mệnh, lúc đó ông đang bị điếc. Tuy vậy, bản giao hưởng số 5 không phải vì thế mà thê lương, trái lại nó mang âm hưởng chủ đạo là ngợi ca tình yêu cuộc sống, cuộc chiến của con người chống lại định mệnh đang gõ cửa.
Bản giao hưởng gồm 4 chương (chương 1: Allegro, chương 2: Andante, chương 3: Scherzo và chương 4: Allegro) trong đó chương 1 được xem là hay nhất và quen thuộc nhất.
Toàn bộ bản giao hưởng đưa chúng ta qua 4 giai đoạn: sợ hãi, tuyệt vọng, thắng lợi và ca ngợi tình yêu cuộc sống.
-
O Fortuna – Carl Orff
O Fortuna (nữ thần may mắn) là một bài thơ Latin thời Trung cổ từ thế kỉ 13 rất hay nằm trong tập thơ của Carmina Buran. Nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức là Carl Orff (1895 – 1982) đã chọn bài thơ này trong số 24 bài thơ để phổ nhạc trong những năm 1935 – 1936. Phần nhạc của bài thơ O Fortuna đã trở nên hết sức nổi tiếng nhờ kĩ thuật hòa âm phối khí đầy kịch tính Carl Orff. Khi hoàn thành, tác phẩm đã được rất nhiều dàn hợp xướng biểu diễn.
O Fortuna đứng đầu trong danh sách các bản nhạc cổ điển được chơi nhiều nhất trong thế kỉ qua. Nó cũng được sử dụng làm nhạc phim cho rất nhiều các bộ phim nổi tiếng như: Lord of The Rings (Chúa tể của những chiếc nhẫn); Star Wars (Chiến tranh giữa các vì sao); 300;... và rất nhiều chương trình truyền hình trên thế giới.
-
Halleluiah Chorus - George Frideric Handel
Trường ca Hallelujah Chorus là tác phẩm của nhà soạn nhạc người Anh gốc Đức: George Frideric Handel (1685 – 1759). Hallelujah là thán từ dùng để ca ngợi thiên chúa, bày tỏ niềm hân hoan, vui mừng và cảm ơn vì được Chúa ban cho nhiều phước lành. Hallelujah Chorus là bản oratorio tiếng Anh do George Frideric Handel sáng tác năm 1741 và ra mắt công chúng lần đầu tiên tại Dublin vào ngày 13 tháng 4 năm 1742 và tại Luân Đôn vào năm 1943. Lời bài hát dựa trên những đoạn Kinh thánh mà Handel cố gắng để miêu tả cuộc sống, cái chết, và sự sống lại của Chúa Giê-su.
Chính vì vậy, càng về sau, tác phẩm càng được sự quan tâm rộng rãi của công chúng, cuối cùng trở thành một trong những tác phẩm hợp xướng nổi tiếng nhất và được biểu diễn nhiều nhất trong nền âm nhạc phương Tây. Nếu bạn đi chơi Noel vào mỗi mùa Giáng sinh, bạn sẽ bắt gặp trường ca Hallelujah Chorus quen thuộc vang lên ở bất cứ nhà thờ nào.
-
"Ride of the Valkyries" – Richard Wagner
"Ride of the Valkyries" là một phần của tác phẩm vĩ đại "The Ring Cycle" do nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức Richard Wagner (1813 – 1883) sáng tác. Trong thần thoại Bắc Âu, Valkyries thường được miêu tả như những chiến binh xinh đẹp, với làn da trắng muốt, mái tóc vàng và cưỡi ngựa thần có cánh. Khi Valkyries hạ trần, áo giáp của họ tỏa ra thứ ánh sáng kì lạ bao trùm cả một khoảng trời.
Richard Wagner đã mô tả hình ảnh tuyệt đẹp này qua khúc nhạc "Ride of the Valkyries" (Sự xuất hiện của những nàng Valkyrie xinh đẹp). Tác phẩm âm nhạc này thuộc phần thứ 2 trong chùm 4 opera dài dằng dặc mang tên " Der Ring des Nibelungen" (Chiếc nhẫn của người Nibelung) và nó đã trở thành một trong những giai điệu cổ điển quen thuộc nhất qua màn ảnh.
-
"Toccata in d minor" – Johann S. Bach
Người đã góp phần làm giàu nền âm nhạc Đức nhờ kĩ năng điêu luyện trong cấu tạo đối âm, hòa âm và tiết tấu cũng như khả năng điều tiết nhịp điệu, hình thái và bố cục âm nhạc nước ngoài chính là nhà soạn nhạc thiên tài Johann Sebastian Bach (1600-1750).
"Toccata in d minor" chính là một trong những tác phẩm âm nhạc nổi tiếng nhất mà Johann S. Bach đã từng biên soạn. Bản nhạc này có nhiều tiết tấu mạnh mẽ, chứa đầy chất bi ai và nó nhanh chóng gắn liền với nhiều phân đoạn bi kịch trong các bộ phim.
-
"Eine Kleine Nachtmusik" – Wolfgang A. Mozart
"Eine Kleine Nachtmusik" là một trong những Serenade (khúc nhạc chiều) nổi tiếng nhất của nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791).
Đây là bản Serenade số 13 cho đàn dây giọng Son trưởng k. 525 vô cùng quen thuộc với cả những người không nghe nhạc cổ điển nói chung vì nó được dùng quá nhiều trong các chương trình truyền hình. Wolfgang A. Mozart đã tạo ra bản nhạc huyền thoại dài 15 phút hoàn thành chỉ trong 1 tuần tại Vienna năm 1787. Nó được xuất bản vào năm 1827. -
"Ode to Joy" - Beethoven
Cùng với bản giao hưởng số 5, thì bản nhạc này của Beethoven đứng trong bảng xếp loại những bản nhạc nổi tiếng nhất trong lịch sử nền âm nhạc thế giới. "Ode to Joy" là chương cuối được biết đến nhiều nhất và được công chúng yêu thích nhất trong Bản giao hưởng số 9 của Beethoven sáng tác năm 1824.
Khi ấy, Beethoven đã bị điếc hoàn toàn. Điều đó càng làm cho nhân loại nghiêng mình thán phục trước một thiên tài âm nhạc vĩ đại. "Ode to Joy" được đánh giá là đỉnh cao của văn minh nhân loại và chọn làm thông điệp hòa bình và thân ái mà loài người gửi vào vũ trụ.
-
"Spring" – Antoni Vivaldi
Antoni Vivaldi ( 1678 – 1741) là nhà soạn nhạc người Ý. Ông được đánh giá là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất thời kì Phục hưng và được biết đến nhiều nhất với các Concerto viết cho nhiều nhạc cụ. Ông nổi tiếng với bộ Concerto cho vĩ cầm mang tên "Bốn mùa". Antoni Vivaldi đã viết 4 bản nhạc trong năm 1723, mỗi bản nhạc tượng trưng cho một mùa trong một năm.
Trong đó bản "Spring" (mùa xuân) có những giai điệu đẹp và tươi sáng nhất. Giai điệu của bản nhạc cũng như khẽ khàng run rẩy tựa mầm non đâm chồi nảy lộc, cựa mình thoát khỏi cái vỏ xù xì thô ráp của mùa đông. Chính vì vậy, nó được đưa vào nhiều tác phẩm và phim ảnh và nó trở nên quen thuộc đến mức chỉ cần được nghe những nốt đầu tiên, người ta đã thấy không khí mùa xuân tràn ngập.
-
"Canon in D Major" – Johann Pachelbel
"Canon in D Major" (Luân khúc Rê trưởng) là một tác phẩm âm nhạc được viết khoảng năm 1680 bởi Johann Pachelbel (1653 – 1706) - nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức.
Với cách soạn nhạc đầy kỹ thuật và tinh tế Canon luôn mang đến cho người nghe cảm giác thư thái và nhẹ nhàng như một dòng suối mát chảy róc rách giữa trưa hè nóng nực, hay thanh thản tự do mỗi buổi sớm mai chạy trên thảo nguyên xanh rộng lớn. Đây là bản nhạc cổ điển tuyệt vời dễ nghe, dành cho mọi lứa tuổi với nhiều cách thể hiện khác nhau.
-
"William Tell Overture" – Gioachino Rossini
"William Tell Overture" (khúc khởi nhạc) mở đầu cho tác phẩm "William Tell"- vở opera cuối cùng dài 12 phút của nhà soạn nhạc người Ý: Gioachino Rossini (1792 - 1868). Đây là bức tranh tả cảnh vùng núi Alpes tại Thụy Sĩ, được chia thành 4 phân đoạn. Với giai điệu đẹp, hoành tráng và biểu cảm, khúc khởi nhạc này được giới chuyên môn đánh giá cao, nó như một bản giao hưởng 4 chương.
Chính vì vậy, khúc khởi nhạc "William Tell Overture" được phổ biến vô cùng rộng rãi và có ảnh hưởng lớn trong văn hóa đại chúng. Nó được sử dụng trong bộ phim hoạt hình "Looney Tunes" của hãng Warner Brother, phim hoạt hình Mickey (The Band Concert) của hãng Walt Disney,...
-
The Blue Danube - Johann Strauss II
Tác phẩm The Blue Danube đã trở thành nhạc nền cho một số bộ phim hoạt hình của hãng Warner Bros như A Corny Concerto với chú thỏ láu thông minh, tinh quái và Đa-nuýp xanh còn xuất hiện trong phim 2001: A Space Odyssey - bộ phim điện ảnh khoa học viễn tưởng đạt doanh thu khổng lồ và được nhận tới 7 đề cử giải Oscar. Những thành công mà bộ phim gặt hái được có một phần không nhỏ nhờ vào những hiệu ứng âm thanh với sự kết hợp tinh tế giữa âm nhạc và cảnh quay. Sự thành công này đã khiến Đa-nuýp xanh sau đó xuất hiện liên tục trong các bộ phim và trở thành một trong những tác phẩm giao hưởng được sử dụng phổ biến nhất trong lĩnh vực điện ảnh.
Bản nhạc mang đậm phong cách Viên này còn được coi là bản quốc ca không chính thức của Áo. Điệu nhạc van du dương thường được phát trên tất cả các kênh truyền hình quốc gia và đài phát thanh của Áo vào những thời điểm quan trọng như đón chào năm mới, Giáng sinh. Tại Viên, sáng đầu năm nào cũng có một buổi hoà nhạc giao hưởng và một quy luật bất thành văn - bản Đa-nuýp xanh phải được chơi trong hôm đó.
-
Spring from The Four Seasons – Vivaldi
Trong Bốn mùa của Vivaldi, mùa xuân có những giai điệu đẹp và tươi sáng nhất, cũng có lúc giai điệu khẽ khàng run rẩy tựa mầm non đâm chồi nảy lộc, cựa mình thoát khỏi cái vỏ xù xì thô ráp của mùa đông.
Bản Mùa xuân từng được VTV đưa vào làm nhạc nền cho phần giới thiệu chương trình từ nhiều năm trước. Bản nhạc đã trở nên quen thuộc đến mức, chỉ cần được nghe những nốt đầu tiên, người ta đã thấy không khí mùa xuân tràn ngập.
-
Here Comes the Bride - Richard Wagner
Hành khúc đám cưới là một tác phẩm viết cho vở nhạc kịch Lohengrin của nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner, sáng tác năm 1850 thường được gọi là "Wedding March" hoặc "Here Comes the Bride". Ngày nay, "Hành khúc đám cưới" thường được chơi ở ngay đầu một lễ cưới.
Điều này không giống như trong nguyên bản vở opera của Wagner. Trong đó, bản hợp xướng do những người phụ nữ hát sau khi các nghi lễ đám cưới đã xong và họ cùng nhau đưa cô dâu tới phòng tân hôn.
-
Danses Des pettis Cycnes - Tschaikowsky
Có thể nói tác phẩm này hội tụ đủ những yếu tố để trở thành một tác phẩm kinh điển của thời đại. Tác phẩm nhạc bắt nguồn từ một câu chuyện cổ tích kể về nàng công chúa Odette bị một tên phù thủy biến thành con thiên nga trắng. Ban ngày nàng là thiên nga, ban đêm nàng trở lại là người. Lời nguyền của tên phù thủy chỉ có thể được giải bằng tình yêu chân thành của một chàng trai giành cho Odette.
Câu chuyện cổ tích nổi tiếng đó hầu như đứa trẻ nào cũng từng được nghe kể. Nhạc phẩm của nhà soạn nhạc lừng danh bắt đầu từ một câu chuyện cổ tích nổi tiếng đã sinh ra một vở ballet kiệt tác – một trong những vở ballet vĩ đại nhất mọi thời đại đã khiến bộ ba truyện – nhạc – ballet đó gắn bó với nhau không rời, cái này tôn lên cái kia và cả ba cùng bất chấp sự thử thách của thời gian để cùng nhau tỏa sáng.
-
Turkish March - Mozart
Phong cách Thổ Nhĩ Kỳ có lẽ là phong cách phương Đông đầu tiên ảnh hưởng mạnh mẽ đến âm nhạc phương Tây đến thế. Phong cách Thổ Nhĩ Kỳ mà các nhà soạn nhạc thời Cổ điển sử dụng giống với phong cách của các ban quân nhạc đế chế Ottoman, đặc biệt là các ban nhạc vệ binh của vua Thổ.
Một sự thúc đẩy quan trọng dẫn tới trào lưu phong cách âm nhạc Thổ thống trị những sáng tác nhạc giao hưởng cổ điển đến từ sự kiện xảy ra vào năm 1699 khi hai đế chế Áo và Ottoman (Thổ) đàm phán Hiệp ước Karlowitz. Để ăn mừng việc ký kết thành công hiệp ước, đoàn ngoại giao Thổ đã mang theo một ban nhạc vệ binh tới Viên để trình diễn. Ngay lập tức nhiều nhà soạn nhạc cổ điển châu Âu ở thế kỉ 18 khi đó đã bị hấp dẫn bởi phong cách nhạc Thổ Nhĩ Kỳ. -
Fur Elise - Beethoven
Thư gửi Elise là một trong những bản nhạc dành cho piano nổi tiếng nhất của Ludwig van Beethoven. Bản nhạc thường được xếp vào loại khúc nhạc ngắn bagaten, nhưng đôi khi nó cũng được xem là một albumblatt (một tiêu đề chung cho các tác phẩm nhạc cổ điển, thường là độc tấu piano).
Như cảm xúc muôn đời của tình yêu, Thư gửi Elise dạt dào tình cảm. Bản nhạc không phức tạp về mặt kỹ thuật, thậm chí có thể chơi bằng một tay trên phím dương cầm, nhưng để đạt được tình cảm dạt dào, sâu lắng, tinh tế và trong sáng mà Beethoven thể hiện trong bản nhạc là điều không đơn giản. Beethoven đã sáng tác Thư gửi Elise khi ông đã 40 tuổi và đã được khẳng định là một trong những nhạc sĩ vĩ đại nhất của mọi thời đại. Trong khoảng thời gian này, Beethoven đã bị điếc. Thư gửi Elise đã được sáng tác trong sự “yên tĩnh” của nhạc sĩ. “Tình yêu có chiều sâu hơn khi người ta lớn tuổi”, Thư gửi Elise chứa đựng sự chiêm nghiệm của người đàn ông đã trải qua bao thăng trầm, cay đắng nhưng vẫn còn nguyên vẹn một tình yêu mãnh liệt và trong sáng trước một cô gái.
-
Rondo a La Turka (từ Sonata cho Piano trong A Major; K. 331)
Tác phẩm Mozart cực kỳ nổi tiếng này trích 1 đoạn trong bản Piano Sonata A Major. Đây là bản Sonata thứ mười một mà Mozart viết cho nhạc cụ và thường bao gồm 3 chương theo kiểu nhanh-chậm-nhanh. Không giống như nhiều biệt danh, Mozart được cho là đã thực sự chọn chính mình Mạnh mẽ, Hạnh Phúc cho cao trào cuối, giống như âm thanh của ban nhạc Marching Thổ Nhĩ Kỳ.
Tác phẩm có chủ đề mở đầu hấp dẫn, khoảnh khắc nhẹ nhàng hơn. Hình thức Rondo cho phép Mozart thể hiện sức mạnh phát minh vô hạn của mình vì sau mỗi lần thematic restatement theo chủ đề, ông tạo ra một giai điệu mới khác. Phần Coda là phần cuối cùng của tác phẩm nhưng nó không mất đi tinh thần và năng lượng của nó khi kết thúc một bản sonata một cách tuyệt vời và thú vị.Rondo a La Turka bao gồm 3 chương, cụ thể:
- Chương 1: Andante grazioso - Một chủ để với sáu biến tấu. Đây là chương được mở đầu một cách chậm rãi rồi kết thúc với những tiết tấu nhanh, có thời lượng hơn 14 phút.
- Chương 2: Menuetto-minuet và trio. Đây là chương vẫn mở đầu chậm rãi, nhưng có phần vô tư hơn, thời lượng khoảng 5 đến 6 phút.
- Chương 3: Rondo Alla Turca-Allegretto. Chương này chỉ kéo có hơn 3 phút, nhưng nó khiến người ta không thể nào quên với những tiết tấu vui tươi mang phong cách Thổ Nhĩ Kỳ.
-
Piano Sonata số 16, trong C K.545
Bản Sonata này có lẽ là bản Sonata nổi tiếng nhất trong tất cả các bản Sonata dành cho piano. Nó thường, và sai, khi nhiều người cho rằng tác phẩm này thích hợp cho nghệ sĩ piano mới bắt đầu. Điều này là để bỏ qua hình thức cấu trúc đáng chú ý của tác phẩm này khác với những bản Sonata cổ điển. Hãy xem xét thực tế rằng sự tái cấu trúc không trở lại trong khóa bổ âm mà trong sự chi phối của F chính. Điều đáng chú ý là Mozart cũng hoàn thành Bản giao hưởng số 39 của ở thời điểm tương tự; một công việc đáng chú ý theo đúng nghĩa của nó.
Sự đơn giản rõ ràng của Sonata này như một lời nhắc nhở nhiều tác phẩm của Mozart có thể lấp lánh với những giai điệu đáng nhớ nhưng có một chút nữa được xây dựng theo cách mới lạ và kỹ lưỡng. Sonata có ba phần Allegro; Andante và Rondo: Allegretto. Andante ở G Major và tìm thấy Mozart ở giai điệu hay nhất. Với dấu hiệu thời gian là ba / bốn tiếng vang nhỏ của một Minuet chậm đòi hỏi phải kiểm soát hoàn toàn cân bằng giữa hai tay. Đoạn kết Finale đưa chúng ta vào một bản rondo, có lẽ là hình thức âm nhạc yêu thích của Mozart vì nó mang đến cho ông cơ hội gần như vô tận để sáng tác chất liệu âm nhạc mới. Đó là một rondo thực sự đáng nhớ và có thể dễ dàng để chơi, hoạt bát nhưng luôn có một cảm giác trang trí tinh tế.
-
Fantasia in D minor K.397
Được cho là do Mozart sáng tác vào năm 1782, tác phẩm piano ngắn này đã chứng tỏ là một trong những tác phẩm phổ biến nhất của nhà soạn nhạc. Đúng như tên gọi cho thấy một tác phẩm giả tưởng; có nghĩa là hình thức âm nhạc của nó chứa đầy những khúc quanh và khúc ngoặt; điều thường không thấy trong các tác phẩm Cổ điển. Fantasia được sáng tác theo một trong những phím tối hơn của Mozart và arpeggios mở đầu phản ánh sự không chắc chắn, dẫn đến một đoạn Adagio có cảm giác như một aria opera.
Sau đó đoạn bị ngắt đột ngột bởi một đoạn presto làm người nghe cảm nhận như trí tưởng tượng của Mozart dường như bay nhanh trước khi trở lại nhịp độ ban đầu. Nhiều yếu tố theo chủ đề có thể tạo ấn tượng rằng tác phẩm có phần sơ sài, được liên kết cẩn thận và liên quan. Điều này chỉ trở nên rõ ràng khi bạn thực sự nắm rõ những giai điệu trong từng bản nhạc. Đáng buồn thay, những nốt cuối cùng của Fantasia đã không được Mozart hoàn thành, các tác phẩm bị bỏ dở vào thời điểm ông qua đời. Có lẽ Mozart có sáng tác những phần khác trong tâm trí hoặc một kết thúc theo một cách hoàn toàn khác; chúng ta sẽ không bao giờ biết
-
Bản hòa tấu piano số 21 tại C Major K. 467
Bản hòa tấu piano số 21 tại C Major K. 46 cho thấy sự đổi mới và tài năng của Mozart. Tác giả đã khai thác triệt để cuộc đối thoại và phát triển chất liệu âm nhạc giữa nghệ sĩ độc tấu và dàn nhạc, với một số phần biểu cảm tuyệt vời cho phần wind. Andante ( phần movement thứ 2), tràn ngập sự đối lập được đặt cẩn thận làm tăng thêm sự kích tính của đoạn. Nó đầy ma thuật và bí ẩn, khác xa với tình cảm mà nó được liên kết.
Mozart khai thác triệt để cuộc đối thoại và phát triển chất liệu âm nhạc giữa nghệ sĩ độc tấu và dàn nhạc, với một số phần biểu cảm tuyệt vời cho phần wind. Andante ( phần movement thứ 2), tràn ngập sự đối lập được đặt cẩn thận làm tăng thêm sự kích tính của đoạn. Nó đầy ma thuật và bí ẩn, khác xa với tình cảm mà nó được liên kết. Trong phần Finale, Mozart cũng không thất vọng. Cảm giác của sức sống trong các đoạn độc tấu di chuyển nhanh được gạch chân với một chút tinh nghịch. Chromaticism được sử dụng để tạo hiệu ứng kịch tính tuyệt vời, nhưng cuối cùng, bản concerto quay trở lại một số thang âm chiến thắng.
Vi Võ 2016-12-03 07:18:34
Bài viết này đã được chọn để làm video youtube toplist.vn nhé các bạn !