Top 4 Bài thơ hay của nhà thơ Đoàn Thị Điểm

Nhà thơ Đoàn Thị Điểm là một trong những nữ sĩ tài hoa bậc nhất trong nền văn học Việt Nam, nổi bật với phong cách thơ tinh tế, sâu sắc và đầy cảm xúc. Bài ... xem thêm...

  1. Top 1

    Nữ trung tùng phận

    Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
    Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
    Gươm thư giúp sức gươm hùng,
    Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.


    Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,
    Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.
    Tinh thần cao thấp nhờ thi,
    Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.


    Chinh phụ trước treo nên giá quí,
    Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh.
    Thêm duyên chước quí giao tình,
    Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.


    Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
    Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
    Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
    Xây hình thục nữ giặm màu nước non.


    Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,
    Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.
    Vật chơi ở chốn khuê phòng,
    Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.


    Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,
    Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.
    Duyên may chồng đã nghĩ tình,
    Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?


    Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
    Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
    Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
    Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.


    Trên lo thảo, giữa hòa, dưới thuận,
    Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.
    Nỗi trông hương hỏa giữ bền,
    Giúp nên chồng có phẩm quyền cao sang.


    Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
    Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
    Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
    Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.


    Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
    Tế tông đường lo cúng lo đơm.
    Kiến thân viếng sớm thăm hôm,
    Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.


    Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,
    Kiêng vật ăn đặng để nuôi con.
    Còn con nòi giống chồng còn,
    Mảnh thân đành chịu hao mòn với ai?


    Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,
    Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.
    Nào là hương đượm lửa nồng,
    Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.


    Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
    Vẽ cho hay mày liễu má đào.
    Thương gìn lúc ốm khi đau,

    Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.


    Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu,
    Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
    Không toan sớm đói chiều no,
    Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.


    Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
    Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
    Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
    Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.


    Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận,
    Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.
    Phòng đào giữ rủi rơi trâm,
    Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.


    Thử từ nết khi chung lúc chạ,
    Gióng từ hơi hòa nhã tơ loan.
    Chiều vui dưới trướng ngoài màn,
    Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.


    Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,
    Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.
    Sợ cơn giông gió tơi bời,
    Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.


    Che đậy kín tường đông ong bướm,
    Giấu nhặt nghiêm nhụy tướng hương hình.
    E khi vách có âm thinh,
    Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.


    Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,
    Ép nhớ thương làm điếc làm đui.
    Mặc người cha mẹ dễ duôi,
    Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.


    Hiểu thương ghét giả cam phận dại,
    Biết nên hư chẳng cãi cho cùng.
    Nên thì an phận kiếm cung,
    Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.


    Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
    Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.
    Vinh thì chàng mão thiếp cân,
    Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.


    Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,
    Dụng đau thương rù quến thâm tình.
    Dầu chàng đổi dạ én anh,
    Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.


    Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
    Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
    Chàng vui thiếp cũng vui càn,
    Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.


    Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
    Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
    Chàng thì biển cả vơi vơi,
    Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.


    Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
    Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
    Rủi duyên gặp phải thường phu,
    Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.


    Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,
    Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.
    Vẻ hồng mắc mỏ bao mươi,
    Đưa cho quân tử trọn đời chủ trương.


    Nhụy đương nở mùi thơm ngào ngạt,
    Dâng hình hoa lo lót con ong.
    Trăm năm kim cải cũng chồng,
    Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.


    Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,
    Đạo phu thê như đũa nên đôi.
    Dầu cho lúc đứng khi ngồi,
    Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô.


    May quan cả, rủi cho lê thứ,
    Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
    Hèn người sang ấy của ta,
    Chê người ta lại cho là đáng khen.


    Chồng sang đặng, ta hèn chẳng quản,
    Chồng đẹp hình, ta mảng lo âu.
    E ra nhiều thiếp nhiều hầu,
    Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.


    Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,
    Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
    Mình thương người cũng thương cùng,
    Còn như chê bỏ, lại dùng vào đâu?


    Kiếm xứng mặt mày râu dưới thế,
    E không mưu đủ kế gìn duyên.
    Còn theo thăm ván bán thuyền,
    Trông chi giữ mảnh hương nguyền cùng nhau.


    Lỡ lối cũ động đào lạc bước,
    Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam,
    Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,
    Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?


    Nhẹ là bức, nặng chì tình nghĩa,
    Để dùng riêng cho phía nữ lưu.
    Thung dung quân tử hảo cừu,
    Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.


    Nào có tưởng vợ nhà đau đớn,
    Ôm tình si muôn lượng sầu than.
    Máu ghen chăn gối dẫy tràn,
    Hình mai ủ dột sắc càng héo don.


    Hễ càng ngắm hao mòn đóa ngọc,
    Càng riêng lo tơ tóc không bền.
    Chàng vui cung nguyệt trao duyên,
    Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.


    Lo ngại rồi ra cơn mất nết,
    Vì ghen tương hết biết thân mình.
    Dám toan tử tiết với tình,
    Còn chi kể đến gia đình hư nên.


    Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,
    Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
    Nên toan đập nát cung cầm,
    Vô duyên đành phận, sống làm chi đây?


    Thương ra giận khó khuây nỗi nhớ,
    Mối tơ duyên ai gỡ cho đang?
    Hỡi người cỡi phụng ngừa loan,
    Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?


    Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,
    Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.
    Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu,
    Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.


    Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,
    Một kiếp sanh của bậc văn tài.
    Nêu gương tuyết giá hậu lai,
    Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.


    Khi đầu ấp cùng khi tay gối,
    Thân thiết nhau sớm tối quen hơi.
    Chừ sao chong ngọn đèn ngồi,
    Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.


    Nào là thuở âm thầm dan díu,
    Vịn bóng trăng đặng níu hoa đào.
    Chừ sao bỏ cảnh úa xào,
    Nhụy phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.


    Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
    Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
    Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.
    Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.


    Nào khi lén vẽ mày thục nữ,
    Nào khi lo gìn giữ hương thề.
    Chừ sao bướm cũ lìa huê,
    Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn.


    Nào khi tựa bên màn canh lụn,
    Nào khi ngồi ngó bóng Hằng Nga.
    Chừ sao để lụn canh gà,
    Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.


    Nào khi đổ mây mưa đảnh giáp,
    Nào khi lo ấm áp cung thiềm.
    Chừ sao vắng dạng tàn đêm,
    Gia cư rách cửa, ven thềm cỏ chen.


    Nào khi ước giữ niềm son sắt,
    Nào thề non nắm chặt dải đồng.
    Chừ sao đổi dạ thay lòng,
    Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.


    Nào khi đứng giữa đàng trông ngọc,
    Nào khi ngồi dưới bộc trong dâu.
    Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
    Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.


    Nào khi đến cầu Lam chưởng ngọc,
    Nào khi lo giã thuốc trường sanh.
    Chừ sao bỏ nghĩa én anh,
    Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.


    Nào khi cửa then gài mấy lớp,
    Cấm vườn xuân nườm nượp én anh.
    Chừ hoang cây cỏ xủ mành,
    Gần cây chim lánh, đến cành gió day.


    Nào khi sắc so tài đẹp dạ,
    Nào khi nhen hương hỏa ba sinh.
    Chừ toan bứt mảnh tơ tình,
    Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.


    Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức,
    Nào khi dò mấy bực cầu ô.
    Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,
    Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.


    Nào là lúc ngửa nghiêng đêm quạnh,
    Nào là khi thức tỉnh đêm khuya.
    Chừ sao loan phụng chia lìa,
    Con trông vợ nhớ, mắt kề ngó song.


    Càng thấy con khờ không đủ trí,
    Càng thêm lo huyết khí bên chồng.
    Nâng niu lúc ẵm khi bồng,
    Phụ thân thế phận cho chồng dạy khuyên.


    Càng sợ hở thung huyên phiền muộn,
    Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui.
    Tảo tần sớm dưỡng chiều nuôi,
    Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.


    Thấy em dại không ham đèn sách,
    Càng để lòng hỏi hạch kinh luân.
    Thay chàng thiếp trả nghĩa thâm,
    Dạy em văn hóa, thiếp làm trưởng huynh.


    Càng nghĩ đến linh đinh phận thiếp,
    Càng ngại lo tội nghiệp thân con.
    Những ngờ nước thấm đầu non,
    Nào hay trăng khuyết hao mòn nhơn duyên.


    Càng đeo đẳng nỗi phiền nỗi thảm,
    Càng thương thân chích bạn lìa đôi.
    Phận sao phận bạc như vôi,
    Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.


    Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,
    Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.
    Chim kết cánh, cây liền cành,
    Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.


    Kìa cá giỡn vẩn vơ đáy nước,
    Nọ kết đôi cưu thước ven trời.
    Còn thân thiếp chịu cút côi,
    Đèn khuya nhắc thảm, gió mơi ghẹo sầu.


    Kìa oan ương ấp nhau chẳng hở,
    Nọ én anh rỉ rả kêu thương.
    Còn ta luống những đoạn trường,
    Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.


    Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,
    Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.
    Nầy thân thiếp chịu gian nan,
    Linh đinh đất chiếu, trời màn không nơi.


    Kìa ong kiến tha mồi dành để,
    Cơn khốn cùng có thể nuôi thân.
    Còn thân thiếp chịu khốn nàn,
    Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.


    Thôi đành kiếp nớt non gượng sống,
    Sống vì con, chẳng sống vì thân.
    Đòi phen đổi thảm ra mầng,
    Nâng niu trẻ dại cho gần đặng cha.


    Đưa giọt sữa ra hòa giọt lụy,
    Trong tình chung huyết khí đúc hình.
    Còn con may đặng giữ tình,
    Khối chung tình ở nơi mình ấu nhi.


    Nghe trẻ khóc như chì dần dạ,
    Thấy con đau như đá đập đầu.
    Còn con ô thước bắc cầu,
    Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.


    Thấy xuân đến vẻ hồng khắp chốn,
    Nương con thơ sống rốn cùng xuân.
    Ru con giọng hát ngập ngừng,
    Xuân ôi ! Xuân biết mấy lần đau thương?


    Ve kêu hạ như dường trêu thảm,
    Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.
    Dỗ con lệ ngọc li bì,
    Hạ ôi! Hạ có biết nghì phu thê?


    Chiều thu nhắc ủ ê cảnh hạn,
    Nhấp nhô xem cánh nhạn về non.
    Trông thu rầu nhớ thân con,
    Thu ôi! Thu biết hao mòn tấm duyên?


    Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,
    Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không.
    Nhớ chồng thấy trẻ não nồng,
    Đông ôi! Đông biết tấm lòng kiên trinh?


    Vắng mặt chồng, cân hình của trẻ,
    Ngó thấy con đặng vẽ tượng chồng.
    Cân thương trẻ ấy mà đong,
    Thì trong thương ấy, của chồng tám phân.


    Kìa máu huyết, cành xuân nhụy nở,
    Khối ái ân đành ở nơi con.
    Dầu cho biển cạn non mòn,
    Tơ duyên khắn khít chỉ còn bấy nhiêu.


    Trẻ nhỏ dại lắm điều học hỏi,
    Thường kiếm cha mong mỏi thấy nhau.
    Dỗ con chỉ bóng giải sầu,
    Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm.


    Hơi mảnh áo còn cầm đặng ngữi,
    Gối loan gìn từ buổi kết duyên.
    Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
    Họa trong giấc mộng giải phiền giao hoan.


    Càng bạc phước càng than con dại,
    Lo tảo tần mảy mạy dưởng nuôi.
    Còn cha con tỷ như côi,
    Chít chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn.

    Nhịn ăn mặc ngừa cơn thiếu thốn,
    Làm lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con.
    Nại chi xác yếu thịt mòn,
    Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.


    Lớn một tuổi, mẹ thêm một khổ,
    Hiểu một điều, mẹ hổ cho thân.
    Trí con lần mở nẻo gần,
    Hỏi cha sao phụ, tố trần làm răng?


    Chẳng lẽ nói cho chàng đen bạc,
    Chẳng lẽ cho cỡi hạc quên nhà.
    Không đành nói thác ra ma.
    Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.


    Không lẽ nói mến anh quên én,
    Không lẽ rằng trộm nén hương thừa.
    Nói chi tìm vợ dâng dưa,
    Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng Nga.


    Không lẽ nói đi qua Đông Độ,
    Không lẽ rằng vô số chinh phu.
    Lẽ nào nói bị tội tù,
    Lẽ nào nói trấn Tây Âu làm hoàng.


    Còn nói thiệt rằng chàng phụ thiếp,
    Cũng vì mê theo kiếp làng chơi.
    E con đến lớn nên người,
    Gương cha để thẹn những lời bợm hoang.


    Riêng chịu thảm không than với trẻ,
    Đổ lụy rơi theo khóe miệng cười.
    Vui là gắng gượng làm vui,
    Cái vui cùng trẻ là hồi ai bi.


    Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm
    Bận lòng con lại vấn nô y.
    Xem chừng coi mảnh anh nhi,
    Co tay đếm tuổi bấy chầy không cha.


    Hột cơm tẻ nhai ra như cát,
    Gan còn nguyên như nát bao chừ.

    Nuôi con từ lúc đào thư,
    Bao nhiêu máu thịt công chờ bấy nhiêu.


    Chàng đâu rõ khúc khiu cực nhọc,
    Lớn khôn ngoan biết học biết hành.
    Biết ơn nuôi dưỡng sanh thành,
    Tìm cha lại bỏ một mình thiếp côi.


    Càng thấy lớn, mầng rồi lại sợ,
    Mầng nên hình, còn sợ theo cha.
    Dường như con vịt mẹ gà,
    Trẻ thơ vội phản, mụ già kinh tâm.


    Làm lụng té bao lăm của cải,
    Để cho con làm ngãi cùng con.
    Nỗi lo đôi lứa vuông tròn,
    Còn lo gia thất vĩnh tồn hậu lai.


    Định hương hỏa, hằng bày quí tế,
    Lập pháp gia, tự kế phụng thờ.
    Con chàng thiếp trả khi thơ,
    Dòng chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.


    Lựa cho học các công các nghệ,

    Tính cho hay mọi vẻ văn tài.
    Sĩ, Nông, Công, Cổ sanh nhai,
    Ngư, Tiều, Canh, Mục làm bài bảo thân.


    Hễ phải mặt văn nhân tài tử,
    Dạy con nên vẹn giữ nhơn luân.
    Văn là thượng sĩ danh thần,
    Võ thì bạt tụy siêu quần quân trung.


    Quan thì phải tận trung vì chúa,
    Dân thì hay tập búa Lỗ Ban.
    Sang thì giữ vững ngai vàng,
    Hèn thì trừ đảng bạo tàn hại dân.


    Trọng thì lấy đai cân làm lịnh,
    Khinh thì lo trừ nghịch làm duyên.
    Nước non để tuổi cùng tên,
    Quốc gia khinh trọng bở bền nơi dân.


    Con thương mẹ dầu vâng lịnh dạy,
    Thương quê hương trọng ngãi quân thần.
    Ngọn rau tấc đất là ân,
    Một dòng một giống lo cần ích chung.


    Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
    Vạch lưng con viết thử để dành.
    Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,
    Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.


    Dầu rủi phận nợ thân chẳng vẹn,
    Đạo Cần Vương nêu tiếng thanh cao.
    Trung thành giữ cõi Nam trào,
    Hùng anh trước đặng Ngụy Tào khiếp oai.


    Trước quốc chánh chia hai tộc chủng,
    Núi Hoành sơn định phỏng biên cương.
    Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
    Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.


    Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
    Văn hóa so cũng kịp tha bang.
    Xa thơ nay gãy giữa đàng,
    Con tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.


    Nào quốc thể, người khi kẻ thị,
    Nào dân đen, phép quỉ hớp hồn.
    Nấu sôi cái máu anh phong,
    An bang tế thế một lòng lo âu.


    Đấng nam tử đâu đâu cũng nợ,
    Khắp năm châu khai mở qui mô.
    Châu lưu tứ hải ngũ hồ,
    Thơ hương đắc vận cậy nhờ dân sanh.


    Vùng Nam Hải uy linh nhứt quốc,
    Cỏ rẽ hai chia đất rấp ranh.
    Trời còn roi nước hùng anh,
    Giang sơn là đấy, còn mình ở đâu?


    Con cũng đứng mày râu dưới thế,
    Nếu kém phương thiếu thế vận trù.
    Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu,
    Tài chi trong kiếp tội tù dã man.


    Con phải nhớ da vàng máu đỏ,
    Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc triều.
    Con Hồng cháu Lạc bao nhiêu,
    Thiếu tài khiếm đức, định triều an bang.


    Mẹ dầu phải suối vàng nhắm mắt,
    Vui thấy con đáng mặt làm trai.
    Nhục con, con chịu chớ nài,
    Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.


    Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng,
    Quen nghề tham, lại nhũng quan gian.
    Sâu dân mọt nước bạo tàn,
    Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.


    Đem chơn chánh phô bày trừ mị,
    Nâng niu cho dân khí lẫy lừng.
    Dân thì biết phận làm dân,
    Chúa cho đáng chúa, đình thần đáng quan.


    Trừ đảng dữ tham gian bạo ngược,
    Diệt những phường mưu chước cầu vinh.
    Xem dường cuồng khấu biên đình,
    Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.


    Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt,
    Đại trượng phu trước giặc vong thân.
    Nên danh khai quốc công thần,
    Nêu tên hậu thế xa gần tặng phong.


    Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu,
    Học cho hay trọng yếu miếu đường.
    Tầng quen cỡi ngựa cầm cương,
    Trận trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.


    Lựa những mặt tài tình thọ giáo,
    Học cho thông mối đạo quân thần.
    Trương Lương dâng dép ba lần,
    Chút công ấy định Hớn Tần nên hư.


    Trọng Ni nhận vi sư Hạng Thác,
    Học tinh thần khai phát Nho tông.
    Gẫm coi tổn bấy nhiêu công,
    Làm cho thiên hạ đại đồng trí tri.


    Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ,
    Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
    Học hay kế nhiệm mưu mầu,
    Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.


    Học đặng định chánh tà giả thiệt,
    Học cho thông đặc biệt hư nên.
    Học gan sắt đá cứng bền,
    Học cho đủ chước xây nền Nam phong.


    Học cho rộng giao thông tứ xứ,
    Học cho cùng xử sự ngoại lân.
    Học cho đúng bậc tài thần,
    Ưu quân ái quốc vua cần dân nghinh.


    Học cho thấu máy linh cơ tạo,
    Học cho toàn trí xảo văn minh.
    Thâu tài hay nhập nước mình,
    Làm cho dân hưởng thái bình giàu sang.


    Công dạy dỗ muôn ngàn khó nhọc,
    Ơn của thầy con học nên người.
    Tài hay tom góp một đời,
    Cho con chẳng kể vốn lời hơn thua.


    Thầy lao lực tùy vừa trí trẻ,
    Dạy cho thông mọi lẽ gần xa.
    Tuổi xanh con đặng trí già,
    Còn thơ con học hóa ra lão thành.


    Con nhờ thầy công danh mới toại,
    Như nhờ cha mới giỏi hình dung.
    Hai ơn ấy gẫm so đồng,
    Nghĩa kia như hiếu, mặn nồng cả hai.


    Xưa ruộng Thuấn voi cày chim cấy,
    Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.
    Đế Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,
    Nương nơi gương ấy vẫn bền đạo con.


    Mẫn Tử Khiên tích còn roi dấu,
    Dẩy xe cha áo xấu mặt dơ.
    Sợ đàn em dại u ơ,
    Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.


    Con ví biết trọng nghì phụ tử,
    Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.
    Đừng làm nhục tổ hổ tông,
    Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.


    Nhìn thung đường đền ơn cúc dục,
    Nhớ công sanh giữ chút hình hài.
    Dưỡng nuôi lao khổ đắng cay,
    Lửa hương chỉn ước có ngày nối xa.


    Còn em út trong nhà thơ bé,
    Trai dạy khuyên, gái để khép khuôn.
    Con đừng quen tánh luông tuồng,
    Các em hư nết, gieo buồn song thân.


    Một cục máu chia phân mấy mảnh,
    Hình hài em tượng ảnh thân con.
    Chữ rằng huyết mạch đồng môn,
    Riêng chưng thân thể, tâm hồn cũng con.


    Ngoài gia tộc, nước non vầy bạn,

    Lựa tài danh giao cạn tâm tình.
    Đời như trận giặc đua tranh,
    Dầu tài một ngựa một mình khó nên.


    Coi gương trước Thánh Hiền ghi lại,
    Kết bạn nhau đạo ngãi làm sao.
    Tuy là khác thửa đồng bào,

    Mà trong sanh tử một màu sắt son.


    Lưu Quan Trương giữ còn nghiệp Hớn,
    Gìn trọn thề chết sống có nhau.
    Dầu cơn độc mã đơn đao,
    Tâm trung nghĩa khí, Ngô, Tào cũng kiêng.


    Sài Triệu Trịnh cũng nguyền như thế,
    Mà nên mưu đủ kế đồ vương.
    Tống thâu thiên hạ Đại Đường,
    Cũng do bởi học nơi trường hữu giao.


    Trong vũ trụ hiệp hào là mạnh,
    Phận đồ thơ phải gánh non sông.
    Anh em bạn tác vầy đông,
    Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.


    Trai nam tử gió trăng là phận,
    Đạp nước non đặng tấn khí hùng.
    Đi con đường thế gai chông,
    Lớn gan hiu quạnh thì lòng cũng nao.


    Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,
    Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
    Dầu cho non nước đổi dời,
    Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.

    ....

    Nữ trung tùng phận

  2. Top 2

    Chinh phụ ngâm diễn nôm

    I
    Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
    Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
    Xanh kia thăm thẳm tầng trên
    Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
    Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
    Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
    Chín tầng gươm báu trao tay
    Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
    Nước thanh bình ba trăm năm cũ
    Áo nhung trao quan vũ từ đây
    Sứ trời sớm giục đường mây
    Phép công là trọng, niềm tây sá nào
    Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
    Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
    Bóng cờ tiếng trống xa xa
    Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng


    II
    Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
    Xếp bút nghiên theo việc đao cung
    Thành liền mong tiến bệ rồng
    Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
    Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
    Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao
    Giã nhà đeo bức chiến bào
    Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
    Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
    Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
    Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
    Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
    Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
    Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
    Nhủ rồi tay lại trao liền
    Bước đi một bước lại vin áo chàng
    Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
    Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
    Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
    Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
    Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
    Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
    Áo chàng đỏ tựa ráng pha
    Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
    Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
    Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay


    III
    Hà Lương chia rẽ đường này
    Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi
    Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
    Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
    Quân đưa chàng ruổi lên đường
    Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
    Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng
    Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
    Dấu chàng theo lớp mây đưa
    Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
    Chàng thì đi cõi xa mưa gió
    Thiếp lại về buồng cũ gối chăn
    Ðoái trông theo đã cách ngăn
    Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
    Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
    Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
    Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
    Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
    Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
    Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
    Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
    Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?


    IV
    Chàng từ đi vào nơi gió cát
    Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?
    Xưa nay chiến địa dường bao
    Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu
    Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
    Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
    Ôm yên, gối trống đã chồn
    Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
    Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại
    Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua
    Hình khe, thế núi gần xa
    Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
    Sương đầu núi buổi chiều như giội
    Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
    Não người áo giáp bấy lâu
    Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
    Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ
    Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
    Tưởng chàng giong ruổi mấy niên
    Chẳn nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
    Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
    Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
    Lên cao trông thức mây lồng
    Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!


    V
    Chàng từ sang Ðông Nam khơi nẻo
    Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
    Những người chinh chiến bấy lâu
    Như xem tính mệnh như màu cỏ cây
    Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước
    Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
    Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
    Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
    Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
    Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
    Chinh phu tử sĩ mấy người
    Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
    Dấu binh lửa, nước non như cũ
    Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
    Phận trai già cõi chiến trường
    Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
    Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ
    Ba thước gươm, một cỗ nhung yên
    Xông pha gió bãi trăng ngàn
    Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành
    Áng công danh trăm đường rộn rã
    Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
    Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
    Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây


    VI
    Trong cửa này đã đành phận thiếp
    Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
    Những mong cá nước sum vầy
    Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời
    Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
    Chàng há từng học lũ vương tôn
    Cớ sao cách trở nước non
    Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
    Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
    Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
    Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
    Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành
    Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
    Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
    Nay quyên đã giục, oanh già
    Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
    Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió
    Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông
    Nay đào đã quyến gió Ðông
    Phù dung lại đã bên sông bơ sờ
    Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy
    Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
    Ngập ngừng, lá rụng cành trâm
    Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
    Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ
    Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
    Ngập ngừng gió thổi chéo bào
    Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông


    VII
    Tin thường lại, người không thấy lại
    Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh
    Rêu xanh mấy lớp chung quanh
    Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ
    Thư thường tới, người không thấy tới
    Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
    Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
    Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai
    Thử tính lại diễn khơi ngày ấy
    Tiền sen này đã nẩy là ba
    Xót người lần lữa ải xa
    Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài
    Tình gia thất nào ai chẳng có
    Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương
    Mẹ già phơ phất mái sương
    Con thơ măng sữa, vả đương phù trì
    Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
    Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm
    Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
    Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
    Nay một thân nuôi già dạy trẻ
    Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
    Nhớ chàng trải mấy sương sao
    Xuân từng đổi mới, Ðông nào còn dư
    Kể năm đã ba tư cách diễn
    Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang
    Ước gì gần gũi tấc gang
    Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay
    Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
    Gương lầu Tần dấu đã soi chung
    Cậy ai mà gửi tới cùng?
    Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư
    Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía
    Ngọc cài đầu thuở bé vui tươi
    Cậy ai mà gửi tới nơi
    Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân.


    VIII
    Trải mấy thu, tin đi tin lại
    Tới xuân này tin hãy vắng không
    Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
    Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng
    Gió tây nổi không đường hồng tiện
    Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
    Màn mưa trướng tuyết xông pha
    Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài
    Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở
    Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
    Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
    Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai
    Há như ai, hồn say bóng lẫn
    Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không
    Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
    Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo
    Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
    Bức rèm thưa rủ thác đòi phen
    Ngoài rèm thước chẳng mách tin
    Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
    Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết
    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
    Buồn rầu nói chẳng nên lời
    Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
    Gà eo óc gáy sương năm trống
    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
    Khắc giờ đằng đẵng như niên
    Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
    Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
    Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
    Lòng này gửi gió đông có tiện
    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
    Non Yên dù chẳng tới miền
    Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời


    IX
    Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
    Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
    Cảnh buồn người thiết tha lòng
    Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
    Sương như búa bổ mòn gốc liễu
    Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
    Giọt sương phủ bụi chim gù
    Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
    Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
    Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
    Lá màn lay ngọn gió xuyên
    Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
    Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
    Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
    Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
    Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau
    Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não
    Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi
    Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
    Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
    Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
    Sớm lại chiều, dòi dõi nương song
    Nương song luống ngẩn ngơ lòng
    Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
    Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi
    Xót nỗi chàng, ngoài cõi trùng quan
    Khác gì ả Chức, chị Hằng
    Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
    Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối
    Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm
    Mượn hoa, mượn rượu giải buồn
    Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi


    X
    Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng
    Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
    Xót người hành dịch bấy nay
    Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi
    Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt
    Trống tiều khua, như đốt buồng gan
    Võ vàng đổi khác dung nhan
    Khuê ly mới biết tân toan dường này
    Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ
    Chua cay này, há có vì ai?
    Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
    Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề
    Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng
    Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn
    Duy còn hồn mộng được gần
    Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người
    Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ
    Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
    Sum vầy mấy lúc tình cờ
    Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân
    Giận thiếp thân lại không bằng mộng
    Ðược gần chàng bến Lũng, thành Quan
    Khi mơ những tiếc khi tàn
    Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
    Duy có một tấm lòng chẳng dứt
    Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
    Lòng theo song chửa thấy người
    Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
    Trông bến Nam, bãi che mặt nước
    Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh
    Nhà thôn mấy xóm chông chênh
    Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
    Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách
    Rườm rà xanh cây ngất núi non
    Lúa thành thoi thóp bên cồn
    Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu


    XI
    Non Ðông thấy lá hầu chất đống
    Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai
    Khói mù nghi ngút ngàn khơi
    Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
    Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc
    Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu
    Ngàn thông chen chúc khóm lau
    Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về
    Trông bốn bề chân trời mặt đất
    Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen
    Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn
    Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
    Gậy rút đất dễ khôn học chước
    Khăn gieo cầu nào được thấy tiên
    Lòng này hóa đá cũng nên
    E không lệ ngọc mà lên trông lầu
    Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu
    Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
    Chẳng hay muôn dặm ruổi giong
    Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
    Lòng chàng ví cũng bằng như thế
    Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa
    Hướng dương lòng thiếp như hoa
    Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
    Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
    Hoa để vàng bởi tại bóng dương
    Hoa vàng hoa rụng quanh tường
    Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần


    XII
    Chồi lan nọ trước sân đã hái
    Ngọn tần kia bên bãi đưa hương
    Sửa xiêm dạo bước tiền đường
    Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ
    Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ
    Ðộ Khuê Triền buổi có buổi không
    Thức mây đòi lúc nhạt hồng
    Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài
    Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
    Bừng mắt trông sương gội cành khô
    Lạnh lùng thay, bấy nhiêu thu
    Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi
    Một năm một nhạt mùi son phấn
    Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi
    Xưa sao hình ảnh chẳng rời
    Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương
    Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ
    Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
    Gió Xuân ngày một vắng tin
    Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì
    Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy
    Trước gió xuân vàng tía sánh nhau
    Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
    Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
    Thương một kẻ phòng không luống giữ
    Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau
    Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
    Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh
    Xuân thu để giận quanh ở dạ
    Hợp ly đành buồn quá khi vui
    Oán sầu nhiều nỗi tơi bời
    Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân
    Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước
    E đến khi đầu bạc mà thương
    Mặt hoa nọ gã Phan Lang
    Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
    Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
    Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
    Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa
    Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng
    Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt
    Lầu hoa kia phảng phất mùi hương
    Trách trời sao để nhỡ nhàng
    Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên


    XIII
    Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội
    Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương
    Chẳng xem chim yến trên rường
    Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau
    Kìa loài sâu đôi đầu cùng cánh
    Nọ loài chim chắp cánh cùng bay
    Liễu, sen là thức cỏ cây
    Ðôi hoa cũng dính, đôi dây cũng liền
    Ấy loài vật tình duyên còn thế
    Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
    Thiếp xin về kiếp sau này
    Như chim liền cánh, như cây liền cành
    Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy
    Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
    Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
    Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung
    Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
    Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên
    Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền
    Mọi bề trung hiếu, thiếp xin vẹn tròn


    XIV
    Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt
    Sức tý dân dường sắt trơ trơ
    Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi
    Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn
    Mũi đòng vác đòi lần hăm hở
    Ðã lòng trời gìn giữ người trung
    Hộ chàng trăm trận nên công
    Buông tên ải Bắc, treo cung non Ðoài
    Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
    Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh
    Ðỉnh non kia, đá đề danh
    Triều thiên vào trước cung đình dâng công
    Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch
    Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen
    Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền
    Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân
    Nền huân tướng nên công rạng vẻ
    Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông
    Ơn trên: tử ấm thê phong
    Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời


    XV
    Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ
    Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
    Khi về đeo quả ấn vàng
    Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao
    Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
    Xin vì chàng giũ lớp phong sương
    Vì chàng tay chuốc chén vàng
    Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
    Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm
    Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu
    Câu vui đổi với câu sầu
    Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
    Sẽ rót vơi lần lần từng chén
    Sẽ ca dần ren rén từng thiên
    Liên ngâm đối ẩm đòi phen
    Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
    Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ
    Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
    Ngâm nga mong gửi chữ tình
    Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!

  3. Top 3

    Bài thơ Hứng Thu

    "Thu về gió mát nhẹ mưa bay

    Muôn mảng thơm trong ắp chen đầy

    Thời biển chừng nhiều đàn sáo nổi

    Cuộc đời may có chuyến chơi nay."

    Bài thơ Hứng Thu
  4. Top 4

    Phong Cách Thơ Của Đoàn Thị Điểm

    Đoàn Thị Điểm không làm thơ về tầng lớp quý tộc, không viết theo kiểu thơ “khẩu khí” mà viết về những đề tài lấy trong sinh hoạt của người lao động, những gì gắn liền với những hoạt động của người dân với làng quê Hiến Phạm, gửi gắm vào đó cái khát khao cuộc sống, niềm tin cuộc sống nơi quê hương bà.


    Có thể nói nhà thơ Đoàn Thị Điểm là một tác gia lớn của nền văn học thời trung đại, bút pháp đa dạng, vừa giỏi văn Hán, lại cũng vừa giỏi thơ Nôm. Bà sáng tác nhiều nhưng tản mạn phần lớn. Đóng góp của bà chính là ở những giá trị nhân văn cao cả, những tư tưởng lớn lao vì dân vì nước và những đặc sắc về nghệ thuật mà bà đã gửi gắm và đạt được trong trước tác của mình.

    Phong Cách Thơ Của Đoàn Thị Điểm



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy