Top 11 Bài thơ hay của nhà thơ Chế Lan Viên
Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, là một nhà thơ, nhà văn hiện đại Việt Nam. Dưới đây Toplist xin giới thiệu đến bạn một số bài thơ ... xem thêm...hay nhất của nhà thơ Chế Lan Viên.
-
Người đi tìm hình của nước
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
Lòng ta thành con rối
Cho cuộc đời giật dây
Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ
Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ
Tìm đường đi cho dân tộc theo đi
Hiểu sao hết "Người đi tìm hình của Nước"
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương nửa đời quen thuộc
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi
Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa
Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
Ơi, độc lập!
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười
Bác thấy:
dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
Không còn người bỏ xác bên đường ray
Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tối cần lao nay hoá những anh hùng
Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che
Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc...
Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai.
1960
Nguồn:
1. Ánh sáng và phù sa, NXB Văn học, 1960
2. Chế Lan Viên toàn tập, Vũ Thị Thường sưu tầm và biên soạn, NXB Văn học, 2002
-
Tiếng hát con tàu
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâuCon tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăngĐất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kiaTrên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuânƠi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thươngCon gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưaCon nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho conCon nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thưCon nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôiNhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chi là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hươngAnh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hươngĐất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm gaMắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần laoNhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng taLấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.Theo GS. Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm, bài thơ này được Chế Lan Viên lâm trong hoàn cảnh đau yếu, không đi đâu được, trong khi các bạn đồng nghiệp đi thực tế ở nhiều nơi. Bài thơ được viết ra như là để tự an ủi mình, với nhan đề ban đầu là Con tàu Tây Bắc.
Bài thơ này từng được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006, nhưng đã được chuyển thành đọc thêm trong SGK Ngữ văn 12 từ 2007.
Nguồn:
1. Ánh sáng và phù sa, NXB Văn học, 1960
2. Chế Lan Viên toàn tập, Vũ Thị Thường sưu tập và biên soạn, NXB Văn học, 2002 -
Xuân
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Ðem chi xuân lại gợi thêm sầu?
- Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã
Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!Ai biết hồn tôi say mộng ảo
Ý thu góp lại cản tình xuân?Có một người nghèo không biết Tết
Mang lì chiếc áo độ thu tàn!Có đứa trẻ thơ không biết khóc
Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran!Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.Nguồn:
Gọi điện
1. Vũ Thị Thường, Chế Lan Viên toàn tập, NXB Văn học, 2002
2. Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004 -
Con cò
I
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay:
"Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò Cổng Phủ
Con cò Đồng Đăng..."
Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
"Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng..."
Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vânII
Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi
Mai khôn lớn, con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Lớn lên, lớn lên, lớn lên...
Con làm gì?
Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu vănIII
Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con
À ơi!
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi
Ngủ đi, ngủ đi!
Cho cánh cò, cánh vạc
Cho cả sắc trời
Đến hát
Quanh nôi.Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002 (do Vũ Thị Thường sưu tập và biên soạn)
-
Những sợi tơ lòng
Tôi không muốn đất trời xoay chuyển nữa
Với tháng ngày biền biệt đuổi nhau trôi
Xuân đừng về! Hè đừng gieo ánh lửa!
Thu thôi sang! Ðông thôi lại não lòng tôi!Quả đất chuyển giây lòng tôi rung động
Nỗi sầu tư nhuần thấm cõi Hư Vô!
Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng
Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ!Lửa hè đến! Nỗi căm hờn vang dậy!
Gió thu sang thấu lạnh cả hồn thơ!
Chiều đông tàn, như mai xuân lộng lẫy
Chỉ nói thêm sầu khổ với ưu tư!Tạo hoá hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt!
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn!Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002 (do Vũ Thị Thường sưu tập và biên soạn)
-
Ngoảnh lại mùa đông
Ngoảnh lại mùa đông thương bạn cũ
Bao người chưa thoát khỏi mùa đông
Em đến về sau xuân dẫu chậm
Đón em còn vạn đóa hoa hồng
Kẻ thù của anh đi rồi
Gió lạnh ngày đông đi khuất
Hôm nay giã từ bệnh tật
Em đưa anh trở ra ngoài
Chiêm hay mùa đó, em ơi!
Ngày tháng dần quên với lịch!
Cuộc sống ngỡ vùi lấp đất
Giờ về cuộc sống nhân đôi
Hạnh phúc anh nhìn loá mắt
Đêm mau, những muốn ngày dài
Anh làm con chim đẹp nhất
Chiều hôm cho đến sao mai
Hát lên những dòng suối mát
Trái tim chia sẻ cho người
Bay đến rừng cây non lộc
Ăn hạt lúa lành dưới đất
Tháng ngày không vãi không rơi...
Nhìn mắt tạnh màu nước mắt
Nhìn tay gân xanh bay mất
Nhìn chân bắp thịt căng rồi
Nhìn mặt đỏ hồng da mặt
Soi gương hồng cả gương soi
Đứng, đã với cành cao ngất
Đi, mơ bước những bước dài
Ơi những dặm đường công tác
Ba lô trìu ấp đôi vai
Sáng đến công trường xa lạ
Khuya theo máy ngủ sao trời
Hay đến bản nào sương phủ
Lửa sàn, củ sắn chia đôi
Đâu chẳng đất lành Tổ quốc
Chẳng tình Đảng dạy dân nuôi
Bờ ao xanh tròn bóng nhãn
Nắng hè giục trắng hoa roi
Cây phượng thay màu cây gạo
Chói chang tà áo son ngời
Tơ hồng nhà ai giục chín
Như sợi tháng ngày hong kén
Sợi vàng dệt lụa lòng tôi
Đã ngọt hồng bì như rượu
Đã tròn trái vải đôi môi
Chim chíp là con chim sẻ
Cúc cù cu gáy từng đôi
Chim chớ làm ta nóng ruột
Cái con tu hú liên hồi
Ta ôm cuộc đời sao xuể
Thôi đừng gọi nữa chim ơi!
Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002 (Vũ Thị Thường sưu tầm và biên soạn) -
Ánh sáng
Cả trời đất đêm nay tràn ánh sáng
Bên Chiêm nương ta say uống nguồn mơ
Miệng đầy trăng khôn cất một lời thơ
Mắt đầy ánh sao sa khôn thể nhắm
Tai đầy tiếng ái ân lời say đắm
Cũng không nghe tiếng động của trần gian
Mũi đầy hương xa lạ xứ Hoa Trăng
Ngăn hơi thở. Trí thơ ngây đầy mộng
Cũng khôn gieo lấy một vài ý tưởngCó ai không trên tận đảo mây trôi?
Quăng xuống đây dải lụa, hỡi ai ơi!
Để mau đem hồn ta đi cõi khác!Trời thăm thẳm! Lời vang không tiếng đáp!
(Phù Cát 4-8-1937)
Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002 (do Vũ Thị Thường sưu tập và biên soạn)
-
Khúc ca chiều
Nắng hiền lành như một màu lụa cũ
Che gốc già, màn lá xanh buông rủ
Ngày chiều chiều, từng trút gió không hương
Lên cành cao khôn gợi dậy bụi đường
Ôi im lặng vẫn ôm nàng bất diệt
Chiều muôn thuở ngại ngùng cơn khóc biệtHồn bao la mời mọc những tình say
Tình bao la quyến rũ mảnh hồn bay
Ôi, cho hồn đau thương vừa kết cánh
Ôi, cho trời hơi sương tăng giá lạnh
Giữa một chiều đôi chút gió không hương
Tình đôi ta như một chút bụi đườngLên bầu trời khôn đưa hồn đôi cánh
Cánh yêu đương trĩu nặng hồn mỏng mảnh
Và ngang chiều nghìn vạn hố cô liêu
Vô ảnh chờ hồn ngả lúc qua chiều
Ôi, im lặng của nắng chiều bất diệt
Ngỡ nghìn thuở vẫn chưa quen ly biệt
Để du dương lá khóc tiếng đôi cành
Sóng thời gian trôi chảy bến ngày xanh
Che gốc già, lá mấy màn buông rủ
Màn xuân khoác nắng vàng như lụa cũ
Hồn tôi nghe hờn khóc tự trong hồn
Một đám tang đưa hồn xuống huyệt buồn
Cành cây biếc nắng vàng vừa hết chiếu
Lòng tôi buồn như đám tang không triệu
Và hồn tôi là triệu đám tang nào
Mà phất phơ trong gió lá xôn xao?(1938)
Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002 (do Vũ Thị Thường sưu tập và biên soạn)
-
Nguồn thơ của tôi
Đáp lại bài "Nguồn thi cảm" của ông Thanh Tịnh (Đồng quê)
Nghìn năm trước đền đài bùng lửa cháy
Họa binh đao lay chuyển nước non Chàm
Nghìn năm trước tiếng reo hò vang dậy
Chốn bình sa máu đỏ chảy mênh mangDòng máu ấy trôi qua bao thế kỷ
Dưới màn quên ảm đạm, dưới sương mờ
Một chiều kia, một chiều kia vắng vẻ
Máu đào tuôn tràn ngập cả lòng taMột chiều kia máu đào dâng lênh láng
Theo bút cùn huyết thắm nhẹ nhàng tuôn
Đấy những cảnh u huyền hay xán lạn
Mà chiều kia người thấy ở ĐIÊU TÀN.(24-12-1936)
Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002 (do Vũ Thị Thường sưu tập và biên soạn)
-
Phong cách thơ của Chế Lan Viên được biết đến với sự đa dạng và chiều sâu, với những đặc điểm chính như sau:
- 1. Tính triết lý sâu sắc
- Chế Lan Viên thường khai thác những vấn đề triết lý và suy tưởng về cuộc đời, con người và vũ trụ. Ông thích đặt ra những câu hỏi lớn và tìm kiếm ý nghĩa sâu xa trong cuộc sống.
- Ví dụ: Trong bài thơ "Bếp lửa," ông không chỉ mô tả hình ảnh bếp lửa mà còn suy tư về sự chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác và những giá trị của cuộc sống.
- 2. Ngôn ngữ phong phú và tinh tế
- Chế Lan Viên sử dụng ngôn ngữ rất phong phú, kết hợp giữa các yếu tố cổ điển và hiện đại, với những hình ảnh và biểu tượng độc đáo.
- Ví dụ: Trong bài thơ "Con đường," ngôn ngữ của ông rất tinh tế và phong phú, sử dụng hình ảnh để diễn tả những suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc.
- 3. Hình ảnh và biểu tượng phong phú
- Ông sử dụng hình ảnh và biểu tượng phong phú để tạo ra những ý nghĩa sâu xa. Những hình ảnh này thường có tính chất ẩn dụ và gợi cảm mạnh mẽ.
- Ví dụ: Trong bài thơ "Biển," Chế Lan Viên sử dụng hình ảnh biển để biểu thị sự bao la, sâu thẳm của cuộc đời và cảm xúc của con người.
- 4. Ảnh hưởng văn hóa đa dạng
- Thơ của ông phản ánh ảnh hưởng của cả văn hóa phương Đông và phương Tây, với sự kết hợp giữa các yếu tố triết lý và nghệ thuật từ nhiều nguồn khác nhau.
- Ví dụ: Trong bài thơ "Những ngọn đồi," bạn có thể cảm nhận sự kết hợp giữa các yếu tố văn hóa phương Đông và những suy nghĩ triết lý phương Tây.
- 5. Chủ đề đa dạng và chiều sâu
- Chế Lan Viên khai thác nhiều chủ đề từ tình yêu, cuộc sống, cái chết đến những vấn đề xã hội và triết lý cuộc sống.
- Ví dụ: Bài thơ "Cái lò gạch cũ" không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn suy ngẫm về quá trình đổi thay của xã hội và cuộc sống.
- 6. Sự thay đổi phong cách
- Phong cách của ông thay đổi qua các giai đoạn, từ những bài thơ hiện thực xã hội đến những tác phẩm triết lý và suy tưởng sâu sắc.
- Ví dụ:Trong giai đoạn đầu, bài thơ "Mặt đường khát vọng" thể hiện tinh thần hiện thực xã hội, trong khi ở giai đoạn sau, bài thơ "Những ngọn đồi" lại thể hiện sự suy tưởng triết lý và tinh thần cá nhân sâu sắc.
4o mini
- 1. Tính triết lý sâu sắc