Top 12 Bài văn phân tích bài thơ "Mưa xuân" của Nguyễn Bính (Ngữ văn 11) hay nhất

Thai Ha 15561 0 Báo lỗi

Nguyễn Bính được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc của làng quê Việt Nam. Thơ của ông mang bản chất trữ tình hồn hậu, chân chất như chính tính cách của ... xem thêm...

  1. Mùa xuân là mùa của lễ hội, mùa của đôi lứa hẹn hò, trao nhau những lời hẹn ước. Mùa xuân cũng là mùa của cảm xúc thơ ca, thăng hoa trong tâm hồn các thi sĩ. Nếu như mùa xuân trong thơ Xuân Diệu đẹp đến vô thực, nồng cháy đến khiến ta say mê, điên cuồng muốn chiếm hữu thì mùa xuân trong thơ Nguyễn Bính lại hoàn toàn khác. Với Mưa xuân, mùa xuân của Nguyễn Bính cũng đậm chất giản dị, thanh bình của làng quê Việt Nam như chính tâm hồn ông vậy!


    Câu chuyện về mưa xuân nhưng mở đầu bài thơ không phải mưa, không phải cảnh xuân, mà là sự xuất hiện trực tiếp của con người. Một người con gái:


    Em là cô gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già.

    Lòng trẻ còn như vuông lụa trắng

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa


    Đó là một cô gái trẻ làm nghề dệt lụa. Chắc hẳn đây là một cô gái đẹp, tấm lòng cô trong sáng, thuần khiết, được tác giả so sánh như một “vuông lụa trắng” vẫn chưa được mẹ già “bán chợ làng xa” tức là chưa có chồng. Cách nói thật lạ, thật hay! So sánh giản dị, giàu tính tượng hình mà cũng đầy tinh tế. Cô gái trẻ này chính là mẫu người thiếu nữ thôn quê trong trắng, thuần khiết, nét đẹp giản dị thường xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính.


    Nhắc đến sự quen thuộc, tôi chợt nhớ đến “Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông” từng xuất hiện trong “Tương Tư”. Sở dĩ có sự liên tưởng này, bởi vì trong 4 câu thơ tiếp theo, hình ảnh Thôn Đoài lại xuất hiện, trong một chiều mưa xuân:


    Bữa ấy, mưa xuân phơi phới bay,

    Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.

    Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,

    Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.


    Đến đây, sau khi tả người, Nguyễn Bính đã kể đến chuyện mưa xuân, mưa xuân vào một buổi chiều. Cảnh nhà đơn chiếc chỉ có hai mẹ con bỗng trở lên vui tươi ở khổ thơ này. Bởi một bữa “mưa xuân phơi phới bay”. Đọc câu thơ, ta có cảm giác từ “phơi phới” như làm sống động cả khổ thơ, khiến cho mùa xuân cũng trở nên thật có hồn. Cảm giác như không phải mưa xuân phơi phới mà chính là lòng “em” đang “phơi phới” sắc xuân thì.


    Mùa xuân như thổi sắc “phơi phới” vào hồn “em” tươi trẻ, khiến hoa xoan cũng nở rộ đẹp xinh, “phơi phới” báo hiệu mùa xuân về. Rồi “hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ” đã làm cho khung cảnh yên bình bị phá vỡ.

    Tiếng trống hội làng thúc giục, với tiếng loa của “hội chèo” cộng thêm “mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.làm cho “vuông lụa trắng” khấp khởi khi ngồi dệt bên khung cửi hay chính tấm lòng thiếu nữ đang mong ngóng nên khấp khởi?


    Lòng thấy giăng tơ một mối tình

    Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

    Hình như hai má em bừng đỏ

    Có lẽ là em nghĩ tới anh


    Ba câu trước miêu tả tâm trạng bối rối xen lẫn chờ đợi, khấp khởi nhưng cũng ngại ngùng e lệ điển hình của cô gái mới biết yêu. Không biết là do “mưa xuân phơi phới”, “hội chèo đi ngang ngõ” hay lời nói của mẹ đã làm cho “vuông lụa trắng” phải “ngừng thoi lại”.


    Không biết có phải tay xinh ngừng dệt là do lòng “giăng tơ một mối tình”? Lòng mới chỉ “giăng tơ” mà sao “hai má em bừng đỏ”? Tất cả câu hỏi đều được trả lời bằng câu thơ cuối, là do anh, tại anh, là vì nghĩ đến nha: “Có lẽ là em nghĩ tới anh”.


    Câu chuyện mưa xuân lại được kể tiếp như nối tiếp tâm trạng bâng khuâng, khấp khởi nhớ đến anh của cô thôn nữ:


    Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

    Em ngửa bàn tay trước mái hiên,

    Mưa chấm tay em từng chấm lạnh,

    Thế nào anh ấy chẳng sang xem


    Lòng người biết yêu thổi vào mùa xuân cũng có hồn hơn hẳn, bởi “vuông lụa trắng” khấp khởi trong lòng khi nghĩ tới “anh ấy”nên không ngần ngại dẫu ngoài trời đang mưa:


    Em xin phép mẹ, vội vàng đi

    Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe,

    Mưa bụi nên em không ướt áo,

    Thôn Đoài cách có một thôi đê


    Từ “vội vàng” xuất hiện trong khổ thơ thật đúng lúc, thật kịp thời, rất đúng với diễn biến tâm trạng của cô gái đang yêu. Đọc đoạn thơ này, nhịp thơ cũng vì từ “vội vàng” mà nhanh hơn một nhịp; có cảm giác như thể em đang vội vàng để đến Thôn Đoài, nhưng đi xem hát đấy mà chẳng phải vì hát đâu, mà là vì anh, vì muốn gặp anh.


    Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

    Lạnh lùng em tủi với canh khuya


    Đám hát tan nhưng đêm chưa tàn. Nếu như ở khổ thơ trước, với tâm trạng “phơi phới”, khoảng cách đến thôn Đoài chỉ ngắn ngủi có một thôi đê, đến nỗi mưa xuân cũng không làm em ướt áo; thì giờ đây, một thôi đê cũng trở nên dài bất tận.


    Bữa ấy, mưa xuân đã ngại bay

    Hoa xoan đã nát dưới chân giầy

    Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”


    Đúng là “Cảnh nào cảnh chẳng đeo tình. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, mưa xuân giờ đã biết vui. Biết buồn theo em. Mưa “phơi phới” giờ cũng ngại bay, hoa xoan vẫn rụng nhưng không lớp lớp dày” nữa mà giờ thì “hoa xoan đã nát” dưới chân giầy”. Bởi “hội chèo làng Đặng về ngang ngõ”. Thôn Đoài đã hết hội rồi. Còn mẹ lại bảo “Mùa xuân đã cạn ngày”.


    Em buồn, Xuân buồn, bởi hội tan, gánh chèo rời đi, em đâu còn cơ hội để tìm anh nữa. Hình ảnh hoa xoan bị đạp dưới chân giày cũng giống như sự ngóng trông, khắc khoải và hy vọng của em vỡ vụn theo trong chiều mưa nặng hạt ấy. Hy vọng không còn em chỉ còn biết tự thầm thì với lòng mình, như đang nói với anh thôi:


    Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

    Bao giờ em mới gặp anh đây?

    Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

    Để mẹ bảo rằng: “Hát tối nay!”


    Em không gặp được anh, em lủi thủi một mình, em tủi với canh khuya nhưng em không hề mất hết hy vọng. Cô gái trẻ ngây thơ, thuần khiết như “vuông lụa trắng” vẫn chờ đợi, vẫn tin tưởng đó chỉ là chưa gặp, có nghĩa là sẽ gặp, có điều không biết là bao giờ. Bởi biết đâu, hội sau em vẫn sẽ lại không may mắn, lại sẽ không gặp được anh?


    Bài thơ Mưa xuân được Nguyễn Bính viết theo thể thơ tứ tuyệt trường thiên. Đó là mùa xuân ở vùng quê bắc bộ những năm nửa đầu của thế kỷ 20. Trong Mưa xuân có bức tranh làng quê ngày xuân, có hội làng, có nỗi lòng của một thôn nữ ở tuổi cập kê.


    Mưa xuân như 1 câu chuyện được thi sĩ kể bằng thơ. Đó là một câu chuyện về tình yêu, về nỗi nhớ mong, tương tư của một cô gái trẻ nơi thôn quê thuần khiết. Câu chuyện chưa kết thúc, cứ khiến người đọc vừa hy vọng, lại vừa man mác buồn.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Nguyễn Bính được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc của làng quê Việt Nam. Thơ của ông mang bản chất trữ tình hồn hậu, chân chất như chính tính cách của những người nông dân hiền lành chất phác. Bài thơ “Mưa xuân” nằm trong tập Lỡ bước sang sang (1940) đã cho chúng ta thấy được phong cách nghệ thuật đặc trưng này của nhà thơ.


    Mưa xuân là bài thơ mượn câu chuyện tình cảm của một cô gái bên khung cửi khi nhớ đến người yêu. Những tiếng lòng tha thiết khi cô gái nhớ mong người yêu được gửi gắm rất tha thiết:


    Em là con gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già,

    Lòng trẻ còn như cày lụa trắng,

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa…


    Cô gái trong bài thơ đã kể về chính mình là một cô gái dệt lụa suốt ngày quanh quẩn bên khung cửi và mẹ già. Tấm lòng ví như tấm lụa trắng mà chưa được bán vào tay ai cả. Thế nhưng sự đời đâu có bình yên trôi qua như vậy cho đến một ngày:


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy


    Hai câu thơ tả cảnh rất hay và rất tình. Mưa xuân thường mang đến cảm giác rất nhẹ nhàng, êm ái như gieo vào lòng người những xuyến xao. Mùa xuân đến với hoa xoan rụng từng lớp, từng lớp vẽ nên một bức tranh quê thật tuyệt vời. Và để tăng thêm cái ấm áp đó có thêm một sự kiện bất ngờ đó là:

    Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõMẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”…


    Nếu hình ảnh hoa xoan làm cho câu thơ mang nét thi vị, thì sự xuất hiện của “hội chèo làng Đặng” lại làm cho bài thơ mang đậm chất quê, không lẫn vào đâu được. Trên thực tế, hội chèo mỗi năm chỉ diễn ra một lần duy nhất vào mùa xuân ở các làng, nhất là các vùng quê chèo như Thái Bình, Nam Định. Trong cái đêm hội chèo định mệnh ấy, “em” đã gặp anh. Và cuộc gặp gỡ ấy chỉ được diễn tả thoáng qua, thoáng qua đến mức làm cho người đọc dễ dàng bỏ qua sự kiện.


    Lòng thấy giăng tơ một mối tình

    Em dừng thoi lại giữa tay xinh

    Hình như hai má em bừng đỏ

    Cỏ lẽ là em nghĩ đến anh…


    Vâng sự kiện hội chèo đã gieo rắc vào lòng em nụ hồng tình đầu chớm nở. Mối tình đầu xao xuyến ấy đã làm cho “hai má em bừng đỏ” khi em “nghĩ đến anh”. Mạch thơ vẫn tiếp tục với sự kể lể của nhân vật trữ tình như là để trình bày nguyên cớ, hay là để bộc lộ rõ sự vận động trong nội tâm nhân vật.


    Mình em lầm lụi trên đường về

    Có ngắn gì đâu một dải đê,

    Áo em che đầu mưa nặng hạt.

    Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.


    Từ tâm trạng bối rối thương yêu đã trở nên buồn tủi hơn với nỗi nhớ của riêng mình. Lúc này chỉ còn mình cô giá trên đường về. Mưa xuân đã chuyển nặng hạt hơn không còn mang cho người ta cảm giác tươi mát như ban đầu. Mà ngược lại, mưa làm còn làm cho người con gái thêm buồn tủi trong đêm lạnh. Khoảng cách giữa nhân vật “em” và “anh” lúc này không còn là một “thôi đê” nữa mà là “một dải đê” xa tít tắt.


    Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay.

    Hoa xoan đã nát dưới chân giày

    Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,

    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”…


    Cũng là bữa ấy có mưa xuân, có hoa xoan, có hội chèo làng Đặng. Nhưng lúc này cảnh vật đã có sự đối lập rõ rệt. Đó là “mưa xuân đã ngại bay”, “hoa xoan đã nát”, lần này là hội chèo làng Đặng đi qua. Nghe lời người mẹ nói thì mùa xuân đã cạn ngày như chính tình yêu của cô gái vậy. Chữ “cạn” cũng được xem vừa là sự kết thúc, nhưng đồng thời nó cũng là sự mở đầu


    Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày


    Từ một cuộc hẹn không thành mà mối duyên lành vĩnh viễn trôi. Nỗi đau khổ đầu đời như một vết cứa vào tâm hồn người con gái. Những tưởng như nỗi đau đó làm mùa xuân đã cạn ngày và tình yêu cũng chết trong em. Nhưng không đến khổ thơ cuối là sự bùng cháy mãnh liệt ngọn lửa khao khát yêu thương trong em.


    Bao giờ em mới gặp anh đây

    Bao giờ hội Đăng đi ngang ngõ

    Để mẹ em rằng hát tối nay?


    Bài thơ “Mưa xuân” không chỉ đơn thuần là một bức tranh tả cảnh quê. Mà nó còn là nỗi lòng của những người đang yêu là các chàng trai, cô gái chốn thôn quê, của chính tâm hồn thi sĩ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Nguyễn Bính là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam, Ông được coi là nhà thơ của làng quê Việt Nam bởi những sáng tác của ông mang sắc thái dân giã, mộc mạc. Tôi thường nhớ tới Nguyễn Bính mỗi độ xuân về, nhất là lúc mưa xuân. Những cơn mưa phùn như rắc bụi trên cỏ cây hoa lá, những cánh hoa bưởi rụng rơi bên thềm nhà… tất cả đều làm tôi nhớ đến Ông, nhớ đến những sáng tác vô cùng thân quen và mộc mạc, gần gũi với khung cảnh quê hương yên bình. Trong số các sáng tác của Nguyễn Bính, tôi thích nhất là bài thơ “Mưa xuân” nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” năm 1940.


    “Em là con gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già

    Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa”


    Mở đầu bài thơ là hình ảnh của một cô gái sống bằng nghề dệt lụa cùng với mẹ già, tấm lòng trong sáng thuần khiết được ví như cây lụa trắng đã cho ta thấy đây là một cô gái có lòng lương thiện, luôn nghe lời mẹ. Nhà thơ đã sử dụng lối viết tự sự chân thật và gần gũi để giới thiệu về cuộc sống hàng ngày của cô gái làm cho người đọc hiểu hơn về nhân vật trong chuyện.


    “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

    Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

    Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”


    Hình ảnh mưa xuân hiện lên thật đẹp chẳng trách Nguyễn Bính đã lấy hình ảnh này để đặt tên cho bài thơ. Các hình ảnh như: mưa xuân, hoa xoan, hội chèo đều là những hình ảnh quen thuộc của mùa xuân và có lẽ đây chính là cơ hội để cô gái có thể gặp chàng trai trong lòng của mình.


    Tôi nhớ trong bài thơ Tương Tư, tác giả cũng đã sử dụng hình ảnh thôn Đoài trong câu thơ: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông – một người chín nhớ mười thương một người”. Hình ảnh thôn quê hiện lên thật gần gũi tượng trưng cho tình cảm lứa đôi thật đẹp, đây chính là điểm đặc sắc trong thơ của Nguyễn Bính mà chúng ta không thể tìm thấy ở các nhà thơ khác.


    Những câu thơ tiếp theo từ “em ngừng thoi lại giữa tay xinh… cho đến thế nào anh ấy chả sang xem” đã diễn tả tâm trạng bồi hồi có chút e thẹn của cô gái khi nghĩ đến chàng. Nguyễn Bính đã sử dụng lối viết tự sự kết hợp với miêu tả đem đến cho người đọc cảm giác rất chân thật, rất gần gũi, dù không có mặt ở đó nhưng người đọc vẫn có thể hình dung ra mọi hành động của cô gái.


    “Em xin phép mẹ vội vàng đi

    Mẹ bảo em về kể mẹ nghe

    Mưa bụi nên em không ướt áo

    Thôn Đoài cách có một thôi đê”


    Nguyễn Bính đã thực sự hóa thân vào nhân vật, kể lại từng chi tiết cũng như diễn biến tâm trạng của cô gái giúp cho người đọc cảm thấy rất chân thực. Từ “vội vàng” đã cho thấy tâm trạng háo hức của cô gái chỉ muốn mau chóng đến hội hàng để có thể gặp được chàng, trái tim và lý trí của cô đều hướng đến chàng.


    “Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

    Em mải tìm anh chả thiết xem

    Chắc hẳn đêm nay dường cửi lạnh

    Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em”


    Những câu thơ vô cùng mộc mạc và giản dị, những câu nói rất đỗi đời thường, rất đỗi gần gũi với lối sống thôn quê bình dị đã được Nguyễn Bính sử dụng trong đoạn thơ trên. Cô gái lặn lội sang thôn Đoài nhưng không hề có ý xem hội mà tâm trí của cô chỉ hướng đến người thương trong lòng, cô mải miết đi tìm anh trong vô thức.


    Biện pháp nhân hóa được sử dụng khéo léo trong hai câu cuối chứng tỏ mọi khi cô luôn gắn bó với khung cửi và thoi ngà nhưng hôm nay cô đã bỏ mặc tất cả để đi tìm chàng, đi tìm hạnh phúc của đời mình.

    Sự chờ đợi trong vô vọng của cô gái đã dập tắt niềm hi vọng của cô, tâm trạng chuyển từ hồi hộp nhớ mong đến trách móc:


    “Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

    Thế mà hôm nọ hát bên làng
    Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

    Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”


    Những lời trách móc của cô gái rất chân thực, mang nỗi niềm của người con gái khi yêu mong muốn được gặp chàng để thỏa nỗi nhớ mong nhưng chàng lại không đến.


    “Mình em lầm lũi trên đường về

    Có ngắn gì đâu một dải đê!

    Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

    Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”


    Chờ hoài mà chàng không đến, cô gái “lầm lũi” đi về trong màn đêm đầy sương gió mang theo bao nhiêu tâm sự với tủi hờn. Tôi rất khâm phục Nguyễn Bính trong việc miêu tả diễn biến tâm lí của cô gái, có lẽ đây chính là yếu tố tạo nên sự thành công và tên tuổi của nhà thơ.


    Tâm trạng của cô gái trước khi đi xem hội là rất vui, rất háo hức vì tin rằng sẽ gặp được chàng, đường dù xa nhưng cô vẫn thấy rất gần điều này thể hiện rất rõ trong câu: “Thôn Đoài cách có một thôi đê”. Bởi vì cô háo hức muốn đi gặp chàng nên dù đường xa hay mưa gió cũng chẳng màng, đường dù xa nhưng cô vẫn thấy rất gần.


    Nhưng đến khi không gặp được chàng trai, suy nghĩ của cô gái đã thay đổi hẳn: “Có ngắn gì đâu một dải đê”. Một mình cô trở về trong sự nhớ nhung, tủi hờn, con đường về nhà trở nên dài hơn bao giờ hết.

    Mùa xuân đang dần qua đi, những cơn mưa xuân đã ngại bay, những cánh hoa xoan đã bị nát dưới giày, hội làng cũng sắp hết, không biết đến bao giờ cô mới gặp được chàng trai, không biết đến khi nào mùa xuân kia lại tươi thắm trở lại.


    Bài thơ “Mưa xuân” giống như một câu chuyện đã được Nguyễn Bính kể lại bằng chất thơ mộc mạc và giản dị của mình. Câu chuyện về người con gái thôn quê ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, tiếc thương cho cô gái vì mùa xuân đã nhỡ nhàng nhưng cũng cảm phục vì tình yêu mãnh liệt của cô.

    Bằng cách sử dụng các hình ảnh đối lập, vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ kết hợp với lối văn tự sự đi vào lòng người, bài thơ “Mưa xuân” của Nguyễn Bính đã để mang đến thật nhiều cảm xúc cho người đọc về tình yêu đôi lứa.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Mưa xuân Nguyễn Bính là một bài thơ hay và đầy ấn tượng bởi nó đã vẽ nên bức tranh của một làng quên yên ả thanh bình. Ở đây có hình ảnh hội làng, có nỗi lòng của người con gái đã đến tuổi cập kê. Một câu chuyện tình yêu đẹp để lại bao vương vẫn nhưng rồi lại đầy nuối tiếc. Đây là một đề tài viết về mùa xuân như bao đề tài khác. Tuy nhiên chúng ta sẽ cảm nhận được một điều khác biệt ở trong bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính


    Mưa xuân Nguyễn Bính là câu chuyện về mùa xuân tuy nhiên mở đầu bài thơ lại không phải là khung cảnh thiên nhiên mà chính là hình ảnh của con người. Đó là một cô thiếu nữ làm nghề dệt lụa. Các cô gái đẹp thường được khắc họa trong các bài thơ. Và cô gái trong Mưa xuân cũng vậy, đó là một cô gái đẹp với tấm lòng trong sáng. Sở dĩ biết được điều này bởi cô được tác giả so sánh như một vuông lụa trắng vẫn chưa được mẹ bán chợ làng xa. Tức là đến tuổi nhưng vẫn chưa có chồng. Tuy có vẻ tượng hình nhưng cũng đầy tinh tế. Cô chính là một mẫu người thôn quê trong trắng và thuần khiết. Với vẻ đẹp đó làm con người ta không khỏi liên tưởng tới Thôn Đoài ngồi nhớ Thôn Đông.


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp lớp rụng rơi đầy
    Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ

    Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay.


    Sau khi tả người tác giả mới dẫn con người ta vào khung cảnh thiên nhiên. Đó là mưa xuân vào một buổi chiều. Và khi đó cảnh nhà đơn chiếc chỉ có hai mẹ co bỗng nhiên vui tươi thêm. Có được điều này bởi đoạn “mưa xuân phơi phới”. Đó cũng có thể không phải mưa xuân phơi phới mà chính là lòng em đang phơi phới xuân thì. Chính cái xuân của con người làm cảnh sắc xung quanh cũng thêm xuân.


    Bữa ấy mưa xuân phơi phơi bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

    Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

    Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay


    Rồi hội chèo làng Đặng đi qua ngõ làm cho khung cảnh thiên nhiên vốn yên bình nay bị phá vỡ. Chính điều này đã làm cho thiếu nữ đang ngồi dệt vải bên khung cửi lại thêm mong ngóng phấn khởi. Sự phấn khởi ấy cũng chính là cảm giác bối rối e lệ của cô gái mới biết yêu lần đầu.


    Có phải cô ngừng thoi lại là bởi lòng đã giăng tơ một mối tình. Bởi chí có như vậy cô mới đỏ mặt. Và với những người yêu thơ, trong Mưa xuân, có thể cô gái đổ mặt bởi :Có lẽ là em nghĩ tới anh”

    Câu chuyện mưa xuân được viết lên thêm với sự chờ đợi của cô thiếu nữ. Bao giờ cũng thế khi mới biết yêu con người ta cũng sẽ thêm phần lãng mạn hơn. Đó là khi cô ra trước hiên nhà để đón nhận những hạt mưa nhẹ nhàng rơi xướng.


    Có điều cô không thực sự để tâm xem trời có mưa hay không bởi trong lòng đã giăng đầy tơ. Đó là một hình ảnh rất đẹp đối với thơ ca. Dẫu lạnh giá nhưng cô gái không cảm thấy mưa lạnh bởi trong lòng chỉ nghĩ thế nào anh ấy chẳng sang xem.


    Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

    Em ngửa bàn tay trước mái hiên

    Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh

    Thế nào anh ấy chả sang xem!


    Chính vì lòng người có tình yêu nên những câu thơ được viết lên cũng có hồn hơn. Bởi trong lòng nghĩ tới anh ấy nên cũng không ngại dẫu trời đang mưa. Từ vội vàng cũng xuất hiện thật đúng úc cũng như đúng với diễn biến tâm trạng của người thiếu nữ.


    Nó giống như cô gái đang vội vàng đến thôn Đoài để nghe hát nhưng thực chất cũng chẳng phải nghe hát đâu. Mà bởi vì em muốn gặp anh. Vì vậy có thể nói lòng phơi phới không phải vì mưa xuân mà là lòng đang xuân.


    Cô gái đi xem hát chèo, họ hát thâu đêm chắc là vui lắm những cô nàng lại không quan tâm. Bởi khi này mới biết yêu nên cô nghĩ tới chỉ có anh. Tuy nhiên anh đã không đến. Cảm xúc khi ấy mới buồn làm sao. Bởi khi con người ta mong mỏi nhiều cũng chính là lúc con người ta dễ thất vọng nhất. Những câu thơ này diễn tả được cảm xúc khi ấy của cô nàng rất thật mà cũng rất nhẹ nhàng.


    Họ đã gặp nhau ở đám hát bên làng hôm nọ và anh chàng đã hẹn năm tao bảy tiết hò hẹn và cô gái đã tin tưởng. Nhưng hôm nay cũng chỉ thấy mùa xuân thật bẽ bàng. Rõ ràng đã hẹn hò rồi nhưng lại không đến làm cho cô nàng thêm bơ vơ, buồn bã. Bởi không gặp được người mình mong muốn nên mới cảm giác mùa xuân kia cũng thật bẽ bàng. Và cô nàng tội nghiệp ra về.


    Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

    Hoa xoan đã nát dưới chân giày

    Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ

    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”


    Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

    Bao giờ em mới gặp anh đây?

    Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ

    Ðể mẹ em rằng hát tối nay?


    Đám hát vẫn chưa tan nhưng đêm đã tàn. Rõ ràng ban đầu với tâm trạng phơi phới là thế nhưng cuối cùng lại chỉ còn sự bẽ bàng. Khi đó mưa xuân cũng đã biết buồn theo em. Mưa xuân giờ cũng ngại bay, hoa xoan thì giờ đã nát dưới thân dày.


    Nó cũng giống như sự trông mong khắc khoải của cô nàng đã bị vỡ vụn theo chiều mưa hôm ấy. Tuy cô gái tủi nhưng cũng không mất hết hy vọng bởi lẽ cô vẫn nghĩ đó chỉ là chưa gặp mà thôi. Và chắc sẽ gặp lại dấu chưa biết bao giờ. Đó là một chút niềm tin còn sót lại báo víu vào.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. “Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Cái nghề làm ruộng và cuộc đời bình dị của người làm ruộng cha truyền con nối từ mấy nghìn năm đã ăn sâu vào tâm trí chúng ta. Nhưng- khôn hay dại- chúng ta ngày một cố lìa xa nề nếp cũ để hòng đi tới chỗ mà ta gọi là văn minh….. Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường.” (theo Thi nhân Việt Nam). Nói thế để thấy chất thơ của Nguyễn Bính, giản dị trong từng câu chữ nhưng chính cái giản dị ấy đã tạo nên sự sâu sắc trong câu chuyện mà vần thơ của Nguyễn Bính truyền tài, đặc biệt thể hiện rõ trong bài thơ Mưa xuân của ông.


    Mưa xuân được xem như một sáng tác đầu tiên trong quá trình sáng tác của ông. Bài thơ là tâm tư, là nỗi lòng thầm lặng của cô gái quê khi phải lòng một chàng trai quê. Một câu chuyện tình nơi thôn quê, chân thành và sâu sắc. Ngay từ đầu, tác giả đã khắc họa hình ảnh người con gái ấy:


    “Em là cô gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già

    Lòng trẻ con như cây lụa trắng

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa.”


    Người con gái ấy sống bên mẹ mình bằng nghề dệt vải, hình ảnh một người con gái dịu dành tóc rủ bên thềm ngồi miệt mài trước khung cửi, cô gái ấy như “cây lụa trắng” tức là vẫn rất tho mộng,chớm tuổi xuân đến. “Chưa bán chợ làng xa” tức là cô vẫn chưa được gả đi. Ngay câu đầu vẻ đẹp của người con gái đã được hiện lên một cách tự nhiên với câu thơ của tác giả. Rồi người con gái ấy, thì ra cũng đang mang trong mình một mối tình thầm kín với chàng trai làng bên. Mùa xuân đến, hội hè bắt đầu, cũng là cơ hội tốt để hai người được gặp nhau…


    “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy…

    Có lẽ là em nghĩ đến anh”.


    Mưa xuân bay đầy trời, hoa xoan lớp lớp rụng đầy trên ngõ, xuân về. Hội chèo làng Đặn qua ngõ, mẹ nói “Thôn Đoài hát tối nay.” Thôn Đoài có hội, thôn Đoài chính là noi có chàng trai mà cô vẫn thương nhớ. Thế nên nghe tin ấy, lòng cô gái thấy xao xuyến, một mối tình đang giăng tơ trong lòng. Cô dừng đưa thoi, nghĩ ngợi thẹn thùng”hai má ửng đỏ”… cô đang nghĩ tới người mình yêu.


    Chắc hẳn là cô sẽ đi xem hội, để mong gặp được chàng trai. Hai khổ thơ tiếp theo là tâm trạng ngổn ngang suy nghĩ của cô gái khi chuẩn bị đi.


    “Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

    Em ngửa bàn tay trước mái hiên

    Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh

    …Thôn Đoài cách có một thôi đê.”


    Khi nhà nhà lên đèn, màn đêm đến, đêm xuân chắc hẳn lạnh lắm “Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh”, cái lạnh ấy không là gì bởi lòng cô đang bừng lên ngọn lửa ấm ấp của tình yêu, của sự chờ mong, khát khao yêu thương. Cô thầm nghĩ rằng chắc hẳn anh cũng sang xem. Vội vàng đi, mưa bụi không làm áo cô ướt. Quãng đừng một thôi đê sao thấy ngắn thế, vì thôn Đoài bên kia là tình yêu của cô. Đường ngắn cũng là vì đến với tình yêu thôi.


    Hội hè nhộn nhịp. liệu cô có thấy chàng trai, liệu mong mỏi của cô có được đáp lại?


    “Thôn Đoài vào hội hát thâu đêm

    Em mải tìm anh chả thiết xem…

    Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

    Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng.”


    Cô gái đến hội cũng chỉ là để tìm chàng trai, cô mải miết tìm không thiết xem gì cả. Rồi không thấy bóng chàng, một mình cô lại thoáng nhớ giường cửi, thôi ngà của mình. Nhớ những gì thân thuộc nhất, có lẽ đó cũng là cảm xúc bình thường của người con gái mỗi khi thấy bơ vơ, họ thường hay nghĩ về những gì thân thuộc nhất. Rồi thì, chàng trai ấy cũng không sang, sự chờ đợi của cô là vô ích.


    Lời hò hẹn kia với chàng trai chắc hẳn chỉ là một lời hứa nơi hội hè nhưng cô gái lại rất xen trọng, vậy nên cô mới than lên “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”, mùa xuân hay chính là tuổi trả của cô gái, tình yêu sự trông mong của cô hay không vì lời hò hẹn của chàng trai thì giờ cô đã là người con gái của một người khác chứ không nhỡ nhàng thế này.


    Sự chờ mong không được đáp lại, tình yêu khi đi giờ đã tàn vì thế mà cảnh vật và tâm trạng ở những khổ thơ còn lại mang nặng tâm trạng buồn, cảnh vật cũng nhuốm màu u ám, như đối lập hẳn với đoạn đầu.


    “Mình em lầm lũi trên đường về

    Có ngắn gì đâu một dải đê!…

    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày.”


    Cô gái không gặp được chàng trai. Bước chân lầm lũi quay về. Lầm lũi, cái dáng gợi nên sao đàng thương đến thế, đáng thương và cô độc. Một thôi đê giờ đây “có ngắn gì đâu”, bước chân nặng trĩu như kéo dài cả đoạn đường. Mưa nặng hạt áo mỏng che sao hết, lạnh lẽo vây quanh khiến cô càng thêm đau buồn và tủi thân. Cô giận hờn chàng trai suốt cả quãng đường về, đến tận sáng hơn sau.


    Ngày xuân, hội hè đã kết thúc rồi, chàng trai vẫn bặt vô âm tín khiến cô không thể bình yên. Cô thốt ra câu hỏi, chất vẫn chàng trai, câu hỏi mà chính cô cũng không đoán được câu trả lời. “Bao giờ em mới gặp anh đây?” Bao giờ hay mãi mãi là không bao giờ. Mùa xuân cũng đã cạn ngày rồi, niềm tin của cô vẫn còn nhưng nghe sao thật mỏng manh… Lời hứa hẹn với chàng trai vẫn luôn là nỗi trăn trở trong trái tim cô gái không thể giải đáp!


    Ngòi bút đậm chất quê của Nguyễn Bính đã viết lên một câu chuyện về tâm tư, cảm xúc rung động của cô gái nơi thôn quê. Những diễn biến tâm lí đặc biệt được chú trọng, sự thay đổi của cảnh vật tương ứng với tâm trạng con người đã khiến bài thơ đem lại cho người đọc những cảm xúc và rung động sâu sắc.


    Mưa xuân của Nguyễn Bính thực sự là bài thơ gây được ấn tượng với người đọc, ấn tượng bởi ngòi bút của nhà thơ, bởi câu chuyện mà ông xây dựng, cô gái bên khung cửi với tình yêu chân thành với chàng trai làng bên. Đặc biệt việc miêu tả cụ thể những cảm xúc của cô trong từng chặng đường tới gặp chàng trai. Đây quả thực là một bài thơ hay, tạo nên sự khác biệt của hồn thơ Nguyễn Bính.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Mùa xuân cũng là mùa của lễ hội, mùa của đôi lứa hẹn hò, trao nhau những lời hẹn ước. Mùa xuân cũng là mùa của cảm xúc thơ ca, thăng hoa trong tâm hồn các thi sĩ. Trong dòng chảy thơ ca đương đại viết về mùa xuân, tôi đặc biệt yêu thích bài thơ Mưa xuân của thi sĩ Nguyễn Bính. Mưa xuân gợi nhớ tuổi hồng năm nào. Mưa Xuân phơi phới bay như tâm tình cô thiếu nữ, đã cuốn tôi ngược dòng về với những năm nửa đầu của thế kỷ 20.


    Bài thơ Mưa xuân được Nguyễn Bính viết theo thể thơ tứ tuyệt trường thiên. Nội dung viết về mùa xuân ở vùng quê bắc bộ những năm nửa đầu của thế kỷ 20. Trong Mưa xuân có bức tranh làng quê ngày xuân, có hội làng, có nỗi lòng của một thôn nữ ở tuổi cập kê. Mưa xuân như một câu chuyện được thi sĩ kể bằng thơ.


    Câu chuyện Mưa xuân, được thi sĩ mở đầu không phải cảnh đẹp xuân, không phải tiết trời xuân, mà là

    Em là con gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già.

    Lòng trẻ còn như vuông lụa trắng

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa.


    Nhân vật trong thơ, người mà Nguyễn Bính muốn miêu tả ở đây là một thiếu nữ làm nghề dệt lụa. Cảnh nhà đơn chiếc em “dệt lụa quanh năm với mẹ già”. Em còn trẻ được tác giả ví “như vuông lụa trắng”. tức vuông lụa chưa thành phẩm. Trong bài Mưa xuân, nhân vật ấy cũng không ngoại lệ. Bài thơ được nối tiếp sau phần giới thiệu bây giờ là:


    Bữa ấy, mưa xuân phơi phới bay,

    Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.

    Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ,

    Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.


    Cảnh nhà đơn chiếc chỉ có hai mẹ con. Bỗng trở lên vui tươi ở khổ thơ này. Bởi một bữa “mưa xuân phơi phới bay”. Ta có cảm giác lòng em “phơi phới bay” chứ không phải “mưa xuân”. Hình ảnh hoa xoan (Sầu đông) là hình ảnh loài hoa hiện diện ở khắp các làng quê Bắc Bộ từ xưa đến nay, được thi sĩ đưa vào Mưa xuân với “hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”.


    Rồi “hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ” đã làm cho khung cảnh yên bình bị phá vỡ. Tiếng trống hội làng thúc giục, với tiếng loa của “hội chèo” cộng thêm “mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.làm cho “vuông lụa trắng” khấp khởi khi ngồi dệt bên khung cửi.


    Mưa xuân đã xuất hiện trong thơ làm cho trời xuân khởi sắc, làm cho lòng người khấp khởi. Câu chuyện Mưa xuân vẫn đang tiếp tục được Thi sĩ kể rằng:


    …Lòng thấy giăng tơ một mối tình

    Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

    Hình như hai má em bừng đỏ

    Có lẽ là em nghĩ tới anh…


    Ở đây có lẽ do “mưa xuân phơi phới” rồi “hội chèo” đi ngang ngõ. Hay lời nói của Mẹ đã làm cho “vuông lụa trắng” phải “ngừng thoi lại”. Vì sao “tay xinh”ngừng dệt? có phải bởi “lòng thấy giăng tơ một mối tình”. Tại sao mới chỉ “lòng thấy… “mà đã “hình như hai má em bừng đỏ”? Em sao lại ngượng ngùng khi mới chỉ “nghĩ tới anh”. Một khổ thơ với bao nhiêu câu hỏi, khiến người đọc phải suy ngẫm qua đi. Câu chuyện mưa xuân vẫn còn nối tiếp:


    …Bốn bên hàng xóm đã lên đèn

    Em ngửa bàn tay trước mái hiên,

    Mưa chấm tay em từng chấm lạnh,

    Thế nào anh ấy chẳng sang xem


    Trời đã buông màn nhung tối đen xuống, bao phủ làng quê. Nhà nhà đã lên đèn, Em lúc này mới để ý và ra “trước mái hiên”,làm một hành động rất đẹp “ngửa bàn tay” ra đón “mưa xuân phơi phới bay”. Mặc dù “mưa chấm tay em từng chấm lạnh”. Nhưng em không cảm thấy mưa lạnh đang rót vào tay mình từng hạt, mà em chỉ nghĩ tới “thế nào anh ấy chẳng sang xem”.


    Mưa xuân đã xuất hiện như có tâm hồn “phơi phới bay”. Ở đây, chúng ta càng thấy rõ tài sử dụng từ ngữ tài tình của thi sĩ. “Vuông lụa trắng” khấp khởi trong lòng khi nghĩ tới “anh ấy” nên không ngần ngại dẫu ngoài trời đang mưa lạnh:


    …Em xin phép mẹ, vội vàng đi

    Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe,

    Mưa bụi nên em không ướt áo,

    Thôn Đoài cách có một thôi đê.


    Bây giờ chúng ta mới thấy từ “vội vàng” xuất hiện. Sau khi em đã “xin phép mẹ”. Mẹ đồng ý nên “Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe”. Đọc tới đây, tôi có cảm giác em đã vội để đến “thôn Đoài”, dù chỉ cách một “thôi đê”. Chỉ có đi nhanh như bay thì “mưa bụi” mới “không làm em ướt áo” được.


    Một điều tôi muốn nói rằng, tâm lý chung của mấy cô con gái mới biết rung động trái tim yêu lần đầu, khi nghĩ đến hẹn hò thì sẽ “chân sáo” để đi là cái chắc.


    Nếu ai đã từng đi dưới sương đông, chắc hẳn biết nếu đi chậm sương cũng sẽ làm ướt áo, chứ đừng nói đến “mưa bụi”. dẫu “mưa bụi” là mưa nhỏ li ti đi chăng nữa. Câu chuyện Mưa xuân vẫn còn lôi cuốn ta đi theo sau khi em đến thôn Đoài mà không bị mưa bụi làm ướt:


    …Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

    Em mải tìm anh chả thiết xem

    Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

    Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em


    “Hội Chèo làng Đặng” tới hát ở “thôn Đoài”, mùa lễ hội mà đặc biệt hôm nay, sẽ “Hát thâu đêm” tức tàn canh “đám hát” mới tan. Em đã xin phép mẹ đi xem hội. Vậy mà “Em mải tìm anh chả thiết xem”. Em có tìm thấy hay không? Giữa chốn đông người đi xem hát ấy, chưa biết.


    Một khổ thơ diễn tả tâm trạng cũng như những lời trách rất thật, rất nhẹ nhàng của cô gái thôn quê. Hoá ra không dưng mà đầu câu chuyện Mưa xuân, em lại “hai má bừng đỏ” khi “nghĩ tới anh”.


    Câu chuyện mưa xuân vẫn chưa dừng lại. Sau khi mưa xuân xuất hiện “phơi phới bay”. Rồi “mưa bụi không làm em ướt áo” và “mưa nặng hạt” đã trút lên đầu qua lớp “áo mỏng che đầu”. Bây giờ ta gặp lại mưa xuân và hoa xoan, hội chèo, mẹ bảo. Nhưng với hình ảnh khác:


    …Bữa ấy, mưa xuân đã ngại bay

    Hoa xoan đã nát dưới chân giầy

    Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”


    Mưa xuân đã biết vui buồn theo em. Bây giờ mưa xuân “đã ngại bay”. Hoa xoan vẫn là hoa xoan rụng rơi trên mặt đất “bữa ấy”. Nó không còn lớp lớp dày” nữa mà giờ thì “hoa xoan đã nát” dưới chân giầy”. Bởi “hội chèo làng Đặng về ngang ngõ”. Thôn Đoài đã hết hội rồi. Còn mẹ lại bảo “Mùa xuân đã cạn ngày”.

    Hội tan, gánh chèo rời đi.em đâu còn cơ hội để tìm anh nữa… Bao nhiêu hy vọng tiêu tan.Nỗi lòng “vuông lụa trắng”có lẽ là hình ảnh “Hoa xoan… dưới chân giầy”. Làm sao mà trong lòng không tan nát cho được khi mà đã tới thôn Đoài mà chỉ “tìm anh chả thiết xem”. Cuối cùng hết hội lủi thủi một mình “tủi với canh khuya”! Bây giờ thì “mùa xuân đã cạn ngày”. Hy vọng không còn em chỉ còn biết tự thầm thì với lòng mình, như đang nói với anh thôi:


    …Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

    Bao giờ em mới gặp anh đây?

    Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

    Để mẹ bảo rằng: “Hát tối nay!”


    Có thể nói, em đã không may mắn trong mùa xuân này! Với câu hỏi “bao giờ em mới gặp anh đây?” có nghĩa vẫn còn hy vọng. chỉ là chưa gặp thôi! Sẽ gặp! có điều là không biết “bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ”, để mà em lại được nghe “mẹ bảo rằng: Hát tối nay”! Lại đợi chờ… và hy vọng…

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Nguyễn Bính là một nhà thơ “Chân quê”, thơ của ông có nhiều bài viết về làng quê. Ông cũng có rất nhiều bài thơ viết về mùa xuân làng quê: “Xuân về”, “Xuân tha hương”, “Nhạc xuân”, “Thơ xuân”… Và trong số những bài thơ xuân đó còn có bài thơ “Mưa xuân”. Đan xen trong “Mưa xuân” là tiếng lòng của một cô gái trẻ đang yêu. Mưa xuân là đêm hội chèo, sự hò hẹn đôi lứa và những nỗi niềm của cô gái quê.


    Mở đầu bài thơ, Nguyễn Bính giới thiệu một khung cảnh gia đình có lối sống nề nếp, có mẹ già và cô gái tuổi hoa niên. Dường như tác giả đã thấu hiểu được tâm trạng của cô gái trong gia đình ấy và đã nói thay tiếng lòng của cô gái:


    Em là cô gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già

    Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa.


    Đây là một cô gái dịu dàng, ngây thơ, trong sáng. Song cuộc sống gia đình và công việc lao động cần mẫn quanh năm dường như đã tách biệt cô với cuộc sống bên ngoài. Hình ảnh thơ khiến ta liên tưởng tới câu ca dao:


    “Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”


    Hình ảnh “lụa trắng” gợi lên cái trinh trắng của một cô gái ít giao lưu, tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Có lẽ cô gái này đã lâu lắm rồi mới nghĩ đến chuyện gia đình. Thay lời muốn nói của cô gái. Nguyễn Bính đã mở đầu câu chuyện bằng khung cảnh thiên nhiên của một đêm xuân:


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy


    Chỉ có hai câu thơ thôi mà khiến lòng con người ta xốn xang và gợi không khí. Nếu như những ngày mưa bình thường chỉ là những giọt nước rơi thì “mưa xuân” của Nguyễn Bính lại “phấp phới bay” đã gợi cho ta một hình ảnh ngày xuân thật đẹp.


    Hoa xoan ở làng quê không khoe hương khoe sắc mà lại rất quen thuộc. Những chùm hoa xoan tàn rụng, những cánh hoa bé li ti rụng đầy trên đường làm cho nỗi lòng của con người thêm buồn. Thiên nhiên nhiều màu vẻ đã làm mất đi không khí và cảm xúc bình lặng, nhất là gánh chèo làng Đặng đi qua càng gợi lên không khí vui chơi ngày xuân.


    Nguyễn Bính đã diễn tả tình yêu của một cô gái quê thật nhẹ nhàng, tinh tế. Khởi đầu là dung cảm nhẹ như tơ vương gợi chút xao xuyến trong lòng. Những rung động lớn dần, con thoi dường như không đi về được như bình thường khi trái tim cô gái đã có những nhịp đập khác thường.


    Hình bóng của một người con trai đã hiện lên trong suy nghĩ của cô gái mà cô cảm thấy có chút gì đó ngượng ngùng. Cô không soi gương cũng biết má mình bừng đỏ. Đó là tâm trạng đang yêu của những cô gái trẻ.


    “Mưa xuân” cũng như nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính, thường có những yếu tố của cốt truyện: Từ tâm tình của cô gái chuyển sang hành động. Cô gái chỉ nghĩ đến chàng trai và những lời hò hẹn. Trời đã tối, hàng xóm đã lên đèn, mưa xuân vẫn bay phủ kín cả bầu trời đêm. Cô gái như có chút đắn đo ngập ngừng trước trời mưa lạnh nhưng ý nghĩ đó nhanh chóng bị lướt qua khi nghĩ đến sự có mặt của chàng trai trong đêm hội.


    “Mưa bụi nên em không ướt áo

    Thôn Đoài cách có một thôn Đê.”


    Cô gái xin phép mẹ rồi vội vàng đi. Hình ảnh cô gái trẻ mải miết tìm người yêu trong đêm hội, không thiết đến chuyện xem hát cũng nói lên sức mạnh của tình yêu và gợi lòng thương cảm trong lòng con người ta. Không còn là chuyện lầm lẫn trong hẹn hò mà tuổi trẻ mạnh dạn dấn thân vào và nhận lại những sự bất ngờ và đau đớn của cảnh ngộ, tình yêu chung thủy và sự bội bạc phũ phàng.


    Ở đây có sự đối lập giữa khung cảnh hội hè vui vẻ và cảnh cô đơn tủi phận của riêng ai:


    Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

    Thế mà hôm nọ hát bên làng

    Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

    Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng.


    Trong ý thơ có lời trách cứ giận hờn. Chính ở giây phút đáng giận, đáng căm ghét này cô gái vẫn tỏ ra hiền dịu và chỉ biết trách cứ chàng trai. “Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn” nhung đã sớm quên lời hẹn ước.

    Nếu như ở khổ thơ đầu, nhân vật trữ tình còn mong đợi, còn náo nức, còn hăng hái thì tất cả đến đây dường như đảo ngược. Thời gian trôi qua chưa lâu, vẫn là đêm xuân ấy nhưng sự cảm nhận về thời gian vẫn hoàn toàn khác biệt “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng?”


    Sự lỡ hẹn trong tình yêu của đôi lứa có thể dẫn đến sự nhỡ nhàng. Từ đây, mùa xuân với đơn vị thời gian vốn có đã được tác giả sử dụng với nhiều ý tứ nghệ thuật. Con đường trở về nhà của cô gái chắc là con đường xa.


    Nếu như trước đây “Thôn Đoài cách có một thôn Đê” thôi thì bây giờ là “Có ngắn gì đâu một dải đê” và lúc đó mưa xuân còn nhẹ hạt thì bây giờ “Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt”, lòng cô gái dường như nặng trĩu. Giữa tâm trạng của cô gái như vậy mưa xuân không còn “phơ phới” mà đã ngại bay. Hoa xoan cũng bị chà đạp trên lối về và “mùa xuân đã cạn ngày”.


    Bây giờ chỉ còn nỗi buồn của cô gái, một nỗi buồn phải âm thầm chịu đựng. Nhưng niềm tin của cô gái vẫn chưa mất hẳn. Một câu hỏi không thể tìm được lời đáp vẫn được thốt lên “Bao giờ em mới gặp anh đây?”. Người con gái trong “mưa xuân” vẫn cứ chờ đợi một cái gì đó rất xa xôi.


    Mùa xuân của trời đất hàng năm thì vẫn trở lại. Mưa xuân lại phơi phới bay nhưng mùa xuân của cuộc đời thì chỉ đến có một lần. Bài thơ “Mưa xuân” đã ghi lại cả hai mùa xuân ấy và gợi lên biết bao ngậm ngùi xót xa cho số phận và hạnh phúc của tuổi trẻ trong cuộc đời của thời đại cũ trước đây.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  8. Nguyễn Bính viết nhiều về mùa xuân, về những cảnh xuân chân thực của làng quê: Mưa xuân, Xuân về, Xuân tha hương, Rượu xuân, Nhạc xuân, Thơ xuân, Mùa xuân xanh. Mùa xuân quả là có duyên thơ với Nguyễn Bính. Những bức tranh của đồng quê và làng quê thật trong sáng, tươi vui khi xuân về. Thiên nhiên như hồi sinh, cỏ cây xanh tươi, con người lấy lại sức lực…


    Mưa xuân lại giới thiệu một khung cảnh đặc biệt của mùa xuân. Mưa xuân, đêm hội chèo, sự hò hẹn của đôi lứa và những nỗi niềm vui buồn của cô gái quê. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Bính giới thiệu khung cảnh một gia đình sống nền nếp với nghề canh cửi, có mẹ già và cô gái tuổi hoa niên. Cô gái như đỡ lời tác giả và tự nói về mình:


    Em là con gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già

    Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa


    Dịu dàng, ngây thơ và trong trắng. Khuôn khổ của đời sống gia đình và công việc lao động cần mẫn quanh năm tưởng như tách biệt cuộc sống của người con gái với thế giới bên ngoài. Hình ảnh thơ gợi nhớ đến câu ca dao “Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.


    Ở đây hình ảnh cây lụa trắng gợi lên sự trinh trắng, thơ ngây của cô gái ít giao lưu tiếp xúc. Có lẽ còn lâu lắm cô gái mới nghĩ đến chuyện gia đình. Nguyễn Bính đã đưa khung cảnh thiên nhiên của một đêm xuân để gợi mở cho câu chuyện:


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy


    Chỉ có hai câu thơ mà xốn xang và gợi không khí quá. Những cụm từ “phơi phới bay “lớp lớp rụng vơi đầy” vừa diễn tả đúng trạng thái của hiện tượng lại mang màu sắc thẩm mỹ riêng biệt. Bình thường là những giọt mưa rơi, nhưng với Mưa xuân Nguyễn Bính viết mưa bay là đúng và phơi phới bay” lại rất gợi tả. Hoa xoan quen thuộc ở vùng quê không khoe hương, khoe sắc.


    Nhưng hình ảnh gợi cảm nhất của những chùm hoa xoan là khi tàn rụng, những cánh hoa nhỏ bay lớp lớp phủ trên đường. Anh Thơ đã rất có lý và nghệ thuật khi viết “Bên chòm xoan, hoa tím rụng tơi bời!”. Cùng với hiện tượng đó, Nguyễn Bính rất sáng tạo khi viết “Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”. Tô Hoài đã nhắc đến hai câu thơ trên của Nguyễn Bính với lời khen trân trọng:


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy


    “Tầm vóc, thật tầm vóc mỗi câu thơ Nguyễn Bính!”


    Thiên nhiên nhiều màu vẻ ấy đã làm mất đi không khí và cảm xúc bình lặng, nhất là gánh chèo làng Đặng đi qua ngõ càng gợi lên không khí vui chơi hội hè của làng quê. Cô gái nết na và kín đáo không còn giữ được sự bình thản. Có thể giấu được mẹ già và người xung quanh nhưng không thể tự giấu được mình. Dường như có một cô gái khác tình tứ hơn đã nhập vào mình:


    Lòng thấy giăng tơ một mối tình

    Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

    Hình như hai má em bừng đỏ

    Có lẽ là em nghĩ đến mình


    Nguyễn Bính đã diễn tả tình yêu của cô gái quê thật nhẹ nhàng tinh tế; khởi đầu là những rung cảm thật nhẹ như tơ vương, gợi chút xao xuyến trong lòng. Những rung động lớn dần, con thoi cần mẫn của khung cửi không đi về được theo nhịp bình thường khi trái tim cô gái đã có những nhịp đập khác thường.


    Mưa xuân cũng như nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính thường có yếu tố của cốt truyện. Từ tâm tình đã chuyển dần sang hành động. Cô gái nghĩ đến chàng trai và những lời hò hẹn. Trời đã tối, hàng xóm đã lên đèn, mưa xuân vẫn bay và bao phủ bầu trời đêm.


    Nguyễn Bính đã miêu tả những chi tiết nghệ thuật gợi cảm. Cô gái như có chút đắn đo, ngập ngừng trước trời mưa lạnh, nhưng ý nghĩ ấy nhanh chóng bị lướt qua khi nghĩ đến sự có mặt của chàng trai trong đêm hội:


    Em ngửa bàn tay trước mái hiên

    Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh

    Thế nào anh ấy chẳng sang xem!


    Tình yêu như có sức mạnh kỳ diệu đã tiếp sức cho cô gái đang tuổi yêu đương. Thật khó hình dung những đổi thay của cô gái quê, lúc đầu còn e ấp, ngượng ngùng và sau đó đã trở nên mạnh dạn, kiên quyết hơn. Dường như không có gì cản trở được tình yêu. “Mưa bụi nên em không ướt áo – Thôn Đoài cách có một thôi đê”.


    Cô gái xin phép mẹ và vội vàng đi. Những chi tiết trên gợi nhớ đến một nàng Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” và khi gặp người yêu Thuý Kiều giãi bày những ý nghĩ chân thực, đáng trọng, đáng yêu và cũng gợi bao thương cảm:


    Nàng rằng: “Quãng vắng đêm trường”,

    Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.

    Bây giờ rõ một đôi ta,

    Biết đâu rồi nữa chăng là chiêm bao?


    Nhưng dù sao nàng Kiều còn được bù đắp, còn gặp gỡ được người yêu để tâm tình. Hình ảnh cô gái trẻ mải miết tìm người yêu trong đêm hội, không thiết đến chuyện xem hát cũng nói lên mãnh lực của tình yêu và gợi biết bao thương cảm ở người đọc. Không còn là chuyện lầm lẫn trong hẹn hò.


    Nguyễn Bính đã đẩy tứ thứ vận động và phát triển đến cao điểm của những tương phản mang tính bi kịch: niềm tin yêu mong đợi của tuổi trẻ mạnh dạn dân thân và sự bất ngờ đến đau đớn của cảnh ngộ, tình yêu tin cậy chung thuỷ và sự bội bạc phũ phàng, khung cảnh hội hè vui vẻ và cảnh cô đơn, tủi phận của riêng ai:


    Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

    Thế mà hôm nọ hát bên làng

    Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

    Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng


    Trong ý thơ có lời trách cứ, giận hờn. Chính ở phút giây đáng giận, đáng căm ghét này, cô gái vẫn tỏ ra hiền dịu và chỉ biết trách cứ chàng trai. “Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn” nhưng đã sớm quên lời hẹn ước. Từ đây tứ thơ và cảm xúc thơ mang nặng tủi buồn. Nếu ở những khổ thơ đầu nhân vật trữ tình còn mong đợi, còn náo nức, còn hăng hái thì đến đây tất cả như đảo ngược.


    Thời gian trôi qua chưa lâu và cũng vẫn là đêm xuân ấy nhưng sự cảm nhận của người trong cuộc về thời gian đã hoàn toàn khác biệt: “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”. Sự lỡ hẹn trong tình yêu đôi lứa có thể dẫn tới sự “nhỡ nhàng”. Tác giả không nổi hẳn vào cảnh ngộ của nhân vật mà chọn một cách nói tinh tế và giàu tính nghệ thuật hơn.


    Tác giả cũng không thể an ủi được gì hơn và cũng muốn để cho nhân vật được lặng lẽ với tâm trạng riêng của mình:


    Mình em lầm lụi trên đường về

    Có ngắn gì đâu một dải đê!

    Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

    Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya


    Không có một âm thanh nào của cuộc sống và thiên nhiên tạo vật. Không có một hình ảnh nào lấp lánh mở ra một tia hi vọng. Chỉ có nỗi buồn của nhân vật và sự cảm thương ở người đọc. Tứ thơ đã dần khép lại với những hình ảnh da diết gợi cảm. “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay”, câu thơ gợi không khí và xôn xao ấy không còn nữa, ý thơ khép lại mưa xuân với những hình ảnh nặng nề và tủi buồn:


    Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

    Hoa xoan đã nát dưới chân giày

    Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày


    Nguyễn Bính đã tỏ ra hăng hái trong nghề khi vận dụng lại hàng loại những ý thơ và hình ảnh thơ ban đầu với những sắc thái mới tương phản, đối lập. Mưa xuân không “phơi phới” mà đã “ngại bay”, hoa xoan bị chà đạp trên lối đi về. Cảnh tượng ấy phải chăng cũng phù hợp với cảnh ngộ của con người? “Mùa xuân đã cạn ngày”, câu nói của người mẹ như khép lại.


    Nếu còn chăng chính là nỗi buồn của người con gái, một nỗi buồn phải âm thầm chịu đựng. Tuổi trẻ tin cậy vẫn chưa mất hẳn niềm hi vọng. Một câu hỏi không thể tìm được lời đáp “Bao giờ em mới gặp anh đây?”. Những cô gái làng quê trong trắng, chung tình trong thơ Nguyễn Bính vẫn chờ đợi. Mùa xuân qua, lại chờ đợi một mùa xuân tới. Cô lái đò chờ đợi đến ba xuân mà vẫn vô vọng.


    Người con gái trong Mưa xuân liệu có đi lại con đường ấy. Mùa xuân của đất trời hàng năm lại trở lại. Mưa xuân lại phơi phới bay, nhưng mùa xuân của cuộc đời thì chỉ đến có một lần. Bài thơ Mưa xuân’ đã ghi lại cả hai mùa xuân ấy và gợi lên bao ngậm ngùi xót xa về số phận và hạnh phúc của tuổi trẻ trong cuộc đời cũ những tháng năm qua.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  9. Bài thơ Mưa xuân in trong tập Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính, xuất bản năm 1936. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn trường thiên, gồm có bốn mươi câu, chia đều thành mười khổ thơ.


    Hình ảnh cô thôn nữ ôm ấp mối tình đầu giăng tơ trong một đêm hội xuân nơi làng quê ngày xưa đã để lại cho lòng ta nhiều vương vấn man mác. Giọng thơ nhẹ nhàng, dìu dịu như những làn mưa xuân trong đêm hội chèo. Tâm tình thiếu nữ được trang trải trong nhiều cảnh vật thân quen, bình dị của chốn quê trong một đêm mưa xuân.


    Khổ thơ đầu, cô gái tự giới thiệu mình, tự nói về cảnh ngộ mình. Chữ “em” rất dễ thương và dịu ngọt. Thơ Nguyễn Bính đẹp như ca dao dân ca:


    Em là con gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già

    Lòng trẻ còn như cây lụa trắng

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa.


    “Em” là cô gái làng nghề tơ tằm canh cửi. Gái miền quê trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa vốn xinh đẹp, trắng trẻo và duyên dáng nổi tiếng xưa nay. Bốn chữ “dệt lụa quanh năm” gợi tả một đức tính siêng năng, khéo tay, hay làm. Hình ảnh so sánh trong câu thơ thứ ba “Lòng trẻ còn như cây lụa trắng” là một nét tự họa chân dung thiếu nữ đặc sắc: trẻ trung, xinh đẹp, ngây thơ, hồn nhiên, trinh trắng.


    Nguyễn Bính rất tinh tế trong nghệ thuật dùng từ; ông không dùng “tấm lụa trắng” mà lại viết “cây lụa trắng” để làm nổi bật vẻ non tơ, trinh trắng và xinh tươi của “em”. Chưa hề có chuyện “gả bán”, chuyện chồng con: “Mẹ già chưa bán chợ làng xa”. Thiếu nữ đang sống và ngày ngày dệt lụa với mẹ già trong nếp nhà êm đềm, đầm ấm, hạnh phúc.


    Khổ thơ thứ hai ghi lại một nét đẹp truyền thống của làng quê trong những ngày hội xuân. Giữa cảnh sắc thiên nhiên hoa xoan tím nồng nàn, trong làn mưa xuân “phơi phới” bay, hội chèo làng Đặng đi qua ngõ, tiếng trống chèo ở thôn Đoài đã rung lên, cô thôn nữ bâng khuâng và xao xuyến.


    Hương sắc ấy, âm thanh ấy là hồn quê xứ sở thanh bình. Hoa xoan và làn mưa xuân là những hình ảnh thân thuộc, bình dị, dân dã của làng quê được nói đến nhiều trong thơ ca dân tộc. Các từ ngữ: “phơi phới bay”, “lớp lớp rụng vơi đầy” là những nét xuân rết gợi cảm, những nét vẽ thần tình trong thơ Nguyễn Bính:


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.


    Giữa cảnh xuân đến và dần trôi, tiếng mẹ cất lên như một tiếng lòng hoài niệm: “… thôn Đoài hát tối nay”.

    Hội xuân thời nào cũng vậy, từng làm nô nức yến anh gần xa. Tiếng trống chèo giục giã đêm đêm nơi thôn Đoài đã gieo vào lòng “em” bao rung động, nhiều xao xuyến. Các từ ngữ, hình ảnh: “thấy giăng tơ”, “ngừng tay lại”, “hình như”, “có lẽ”, “thoi xinh”, “hai má em bừng đỏ” – đã biểu hiện một cách tinh tế tâm tình cô thôn nữ trong đêm xuân vào hội. Cô gái dịu dàng, bâng khuâng trong mốì tình đầu “giăng tơ”:


    Lòng thấy giăng tơ một mối tình

    Em ngừng tay lại giữa thoi xinh

    Hình như hai má em bừng đỏ

    Có lẽ là em nghĩ đến anh.


    Mối tình đầu e ấp ấy, “em” có thể giấu được mẹ già và những người xung quanh, nhưng làm sao mà giấu được lòng mình! Tâm hồn thiếu nữ như mặt nước ao xuân phẳng lặng, trong trẻo bỗng xao động khi bóng hình yêu thương của chàng trai bên làng chợt hiện ra, và tâm hồn khẽ nhắc: “Em nghĩ đến anh”, “Thế nào anh ấy chẳng sang xem”. “Chiếc thoi xinh” ngừng lại giữa bàn tay thon nhỏ cũng như cảm nhận được và chia sẻ với tiếng lòng thiếu nữ.


    Vội vàng nhưng ý tứ, “Em ngửa bàn tay trước mái hiên”. Mưa xuân rây bụi: “Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh”. Cô gái ra đi xem hội chèo với một niềm tin yêu phấn chấn đầy hăm hở:


    “Mưa bụi nên em không ướt áo

    Thôn Đoài cách có một thôi đê”.


    “Thôi” cũng như “hồi” là đơn vị chỉ thời gian ngắn, cách nói của dân quê. “Thôi đê” trong câu thơ Nguyễn Bính chỉ một đoạn đê ngắn, con đường đi tới thôn Đoài. Đến thôn Đoài để nghe hát chèo và cái chính để tìm gặp người yêu. Con đường ấy có gì xa cách, đâu phải là “đầu sông – cuối sông”, mà chỉ có một “thôi đê” ngắn ngủi.


    Nhưng sự đời thường trớ trêu. Có kẻ từng đứng dưới trời mưa bên cầu giữa đêm khuya đợi gặp người yêu, nhưng càng mong chờ càng mỏi mắt. Ở đây cũng vậy, giữa đám hội đông vui “Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm”, thiếu nữ “chả thiết” xem, chỉ lo, chỉ mải miết đi tìm người yêu. Nhưng càng tìm càng thất vọng.

    “Giường cửi” và “thoi ngà” – công cụ dệt lụa thân quen của cô gái làng nghề được nhân hoá như có tâm hồn. Nguyễn Bính đã lấy sự vật để ngụ tình, để đặc tả tâm trạng, bơ vơ và buồn tủi của cô thôn nữ thất tình lạc lõng giữa đám hát chèo đông vui:


    Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm

    Em mải tìm anh chả thiết xem

    Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh

    Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.


    Hội chèo thôn Đoài đối với mọi người càng đông càng vui bao nhiêu, thì trái lại, với “em” lại càng buồn tủi bấy nhiêu. Cô gái nhẹ trách người yêu lỗi hẹn. Chắc là đã có bao giọt nước mắt cô gái ứa ra hoà cùng với hạt mưa xuân. Khi đi xem hội, thiếu nữ vội vàng, hăm hở với bao hi vọng thì giờ đây tâm trạng cô như chùng xuống, thất vọng, buồn tủi đáng thương:


    Chờ mãi anh sang anh chẳng sang

    Thế mà hôm nọ hát bên làng

    Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

    Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!.


    Chàng trai lỗi hẹn hay đã thay lòng đổi dạ? Phải chăng niềm thương yêu, tin cậy và chung thuỷ của thiếu nữ đã bị chàng trai bội bạc phũ phàng? Hai tiếng “chờ mãi” như một tiếng thở dài mà không thể kìm nén. “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng” là một lời than thân, nghẹn ngào, nuối tiếc.


    Đâu chỉ “nhỡ nhàng!” trong một đêm hội xuân. Như một dự cảm trong lòng thôn nữ về sự “nhỡ nhàng” tình duyên cả một thời son trẻ: “Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!”. Tiếng thở, lời than ấy vừa ngậm ngùi xót xa, vừa thể hiện tình yêu đối với cô gái hệ trọng biết nhường nào!


    Đêm hội xuân đối với “em” bữa ấy mãi mãi là một khối buồn tủi. Kỉ niệm ấy sẽ trở thành vết thương lòng. Trở về nhà, cô gái dịu dàng, hiếu thảo ấy biết lấy tích chèo nào để “kể mẹ nghe” đây? Cô gái đành bỏ dở đêm chèo, buồn tủi “lầm lũi” trở về nhà. Ra đi xem hội, con đường chỉ “một thôi đê” ngắn ngủi, thì giờ đây như kéo dài ra thành “… Có ngắn gì đâu một dải đê”.


    Ra đi xem hội khi “Mưa bụi nên em không ướt áo” thì lúc trở về “Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt”. Thân gái dặm trường, nước mắt như ứa theo từng bước chân lầm lũi trên dải đê như dài ra vô tận: “Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya”.


    Bài thơ khép lại với cảnh vật buồn bã, với tâm trạng tủi sầu của thiếu nữ. Hội xuân đã tàn: “Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ”… Mùa xuân “đã cạn ngày”, mùa lễ hội cũng đã đi qua. Còn đâu nữa cảnh “mưa xuân phơi phới bay”, còn đâu nữa cảnh “Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”.


    Cô gái nhìn trời mưa xuân đã ngại bay, nhìn cảnh hoa xoan đã nát dưới chân giày… mà lòng ngao ngán. Cảnh vật chứa đầy tâm trạng sầu thương. Tất cả chỉ còn là hoài niệm buồn neo giữ mãi trong lòng không bao giờ có thể quên:


    Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

    Hoa xoan đã nát dưới chân giày.


    Cô gái thầm nhắc, thầm nhắn gọi: “Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày”. Mùa xuân đã dần trôi qua. Điệp ngữ “bao giờ” được láy lại trong hai câu hỏi tu từ khép lại bài thơ, đã thể hiện một tâm trạng đợi chờ, phấp phỏng với ít nhiều hi vọng:


    Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

    Bao giờ em mới gặp anh đây?

    Bao giờ hội Đặng đi ngang ngõ

    Để mẹ em rằng: Hát tối nay?.


    Giọng thơ nhẹ nhàng cất lên như tiếng tâm tình hiền dịu của thiếu nữ: buồn, tủi, giận, hờn, mong đợi… Nỗi buồn về sự trắc trở trong tình duyên như được nén lại trong lòng, cô gái âm thầm chịu đựng. Lại một mùa xuân nữa đợi chờ. Lại một đêm hội xuân hẹn hò mong ước.


    Mưa xuân là nỗi buồn lỡ hẹn trong mối tình đầu của cô gái quê ngày xưa. Mỗi câu thơ là một tiếng lòng. Có bâng khuâng, hăm hở. Có xao xuyến đợi chờ. Có nỗi buồn lỡ hẹn: “Chờ mãi anh sang anh chẳng sang”… Câu hỏi cuối bài thơ chứa đầy tâm trạng; tuy chưa có câu trả lời, nhưng không tuyệt vọng.

    Mùa xuân sẽ trở lại với làn mưa bụi “phơi phới bay”, với “Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, với tiếng trông chèo đêm hội xuân ở những thôn Đoài gần xa “hát thâu đêm”. Và tình yêu hạnh phúc như hoa trái mùa xuân sẽ đến với thiếu nữ.


    Giá trị nhân bản của bài thơ Mưa xuân là niềm hi vọng về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi được san sẻ mà thi sĩ Nguyễn Bính gieo vào lòng ta.


    Mưa xuân là một khúc tâm tình êm dịu mà buồn, cái buồn lặng lẽ cứ nén sâu vào tâm hồn. Nhà thơ chân quê đã tạo nên một không gian nghệ thuật dân dã thân thuộc, bình dị, mến thương để diễn tả những rung động vui buồn, xôn xao trong tâm hồn thiếu nữ giữa những ngày hội xuân, những ngày khao khát yêu thương.


    “Mưa xuân” là một khúc tình ca dịu buồn. Đã hơn bảy mươi năm trôi qua, khúc tình ca ấy vẫn làm man mác tâm hồn tuổi xuân trên những nẻo đường gần xa khi đất nước tươi đẹp đang tưng bừng vào mùa lễ hội…

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  10. “Đến với làng thơ trong bộ áo nâu sồng”, Nguyễn Bính đã đi vào lòng người đọc nhẹ nhàng bởi những vần thơ “chân quê” của mình. Từ Mưa xuân đến Lỡ bước sang ngang hay các thi tứ khác đều đượm vẻ chân quê mộc mạc. Và Mưa xuân là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách của ông. Mưa xuân (trong tập Lỡ bước sang ngang-1940) được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất, đẹp nhất, tình nhất và chân quê nhất.


    Nếu đứng ngoài mà nhận định thì mưa xuân vô tình trở thành kẻ ngăn cách hai không gian: khung cửi và cuộc đời. Nhưng nếu ta đặt mình vào vị trí của em (một nhân vật trữ tình) thì mạch thơ tự sự của bài thơ bắt đầu ngay từ những lời thơ đầu tiên:


    Em là con gái trong khung cửi

    Dệt lụa quanh năm với mẹ già,

    Lòng trẻ còn như cày lụa trắng,

    Mẹ già chưa bán chợ làng xa…


    Lời giãi bày của nhân vật “em” muốn nói rằng: cuộc sống của “em” đang rất yên bình, thơ mộng, hay muốn giải thích cho hàng loạt sự biến đổi sau này? Khung cửi bản thân nó đã là sự biểu hiện cho cuộc sống ấm êm của làng quê. “Trong khung cửi” không chỉ là thế giới của riêng “em”, mà nó còn là thế giới con gái, thế giới bình yên của người con gái thôn quê. Trong cái thế giới bình yên đó, “em” vẫn vẹn nguyên một sự tinh khôi, tinh khiết như “cây lụa trắng”.


    Nhưng cuộc đời sẽ cứ bình lặng trôi đi vô sự, cứ như hết ngày lại đêm, hết mưa rồi nắng, nếu không có một ngày, “hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ”. Và như vậy, sự giải thích ban đầu kia của “em” ‘sẽ chỉ cho người đọc nhận thấy sự biến đổi lớn lao trong cuộc đời “em”. Từ “bữa ấy”, khi “mưa xuân phơi phới bay, hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, “em” đã bước sang một thế giới khác.


    Không còn là trong khung cửi nữa, em “đã bước ra ngoài trời, giữa cuộc đời theo tiếng gọi của mưa xuân”. Mưa xuân đến không chỉ giăng tơ cho trời đất mà giăng tơ vào hồn người. Nó gieo vào lòng “em” luyến ái đầu tiên hay hạt mầm vốn phong kín trong lớp vỏ êm đềm của thời thơ trẻ, gặp mưa xuân bỗng xốn xang tách vỏ.


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy


    Hai câu thơ rất hay, rất đẹp và rất tình. Mưa xuân thường đến rất nhẹ nhàng, êm ái như gieo vào lòng người những xuyến xao. Mưa xuân đến, hoa xoan rụng từng lớp, từng lớp vẽ nên một bức tranh quê trong tiết trời ấm áp của mùa xuân. Rồi như để tăng thêm cái ấm áp đó sự kiện đến với em cũng như những chàng trai, cô gái khác của làng em:


    Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
    Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”…


    Nếu hoa xoan làm cho câu thơ mang đậm hình ảnh quê, thì sự xuất hiện của “hội chèo làng Đặng” lại làm cho bài thơ mang đậm chất quê, không lẫn vào đâu được. Hai câu thơ rất thực mà cũng rất mộng. Hội chèo mỗi năm chỉ diễn ra một lần duy nhất vào mùa xuân ở các làng, nhất là quê chèo Thái Bình, Nam Định. Ấy là cái thực. Hội chèo đã kéo người gái quê ra khỏi khung cửi đến vói hẹn hò.


    Song cái đêm chèo ở làng Đặng ấy dẫu thật bao nhiêu lại cũng như là sự tái hiện qua hồi ức. Ấy là cái mộng chăng? Trong cái đêm hội chèo ấy, “em” đã gặp anh, đâu có cuộc hò hẹn đầu tiên khi “em” bước ra khỏi khung cửi. Và cuộc gặp gỡ ấy chỉ được diễn tả thoáng qua, thoáng qua đến mức làm cho người đọc dễ dàng bỏ qua dẫu đó là hai câu thơ rực rỡ nhất.


    Bốn khổ thơ tiếp theo là một sự kể lể dàn trải. Nhưng cái sự kể lể đó của cô gái lại khắc họa nên một thế giới thực, hiện hữu tuyệt đối.


    Lòng thấy giăng tơ một mối tình

    Em dừng thoi lại giữa tay xinh

    Hình như hai má em bừng đỏ

    Cỏ lẽ là em nghĩ đến anh…


    Thế giới thơ Nguyễn Bính luôn đưa ta chao đảo giữa hai bờ hư ảo – hiện thực. Vậy nên dẫu cho mưa xuân phơi phới bay và hội chèo làng Đặng về biểu diễn là thực, thì cái việc “em ngửa bàn tay trước mái hiên” để định đoán “thế nào anh ấy cũng sang chơi” lại cũng chỉ là trong ảo tưởng, trong tưởng tượng của em. Và như vậy bài thơ trở nên hư ảo và lung linh hơn.


    Tình yêu của Nguyễn Bính thật nhẹ, thật êm cũng như thật da diết, mạnh mẽ và kín đáo. Nó kín đáo nhu mưa xuân vậy. Mưa xuân đến báo hiệu một sức sống mới đang đâm chồi, báo hiệu một sự hồi sinh mạnh mẽ.


    Trong “thế giới con gái”, cuộc sống của em” vốn ấm êm là vậy, “em” bước ra mùa xuân và “dệt cho mình tâm tình đầu”.


    Nhưng người con gái,”chưa nếm ngọt ngào đã ngậm đắng cay. Nếu ở trên là một cảm giác ấm êm với bản sắc văn hoá đặc trưng của làng quê, thì bây giờ là sự lạnh lẽo, cô đơn, buồn tủi, tối tăm:


    Mình em lầm lụi trên đường về

    Có ngắn gì đâu một dải đê,

    Áo em che đầu mưa nặng hạt.

    Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya.


    Mua xuân như nặng hạt hơn. Cũng không còn mang cho người ta cảm giác ấm êm tươi mát như nó vốn vậy. Mà ngược lại, mưa làm cho cõi lòng em thêm buồn tủi, đơn lạnh. Tình yêu vốn rất đẹp, rất nên tho, rất ngọt ngào. Chẳng phải “chàng thi sĩ của thơ tình ” đã phải thốt lên rằng “làm sao sống được mà không yêu”, dù cho “yêu là chết ở trong lòng một ít” đó sao? Nhưng tình yêu cũng có muôn vàn ngang trái.


    Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay.

    Hoa xoan đã nát dưới chân giày

    Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ,

    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”…


    Cấu trúc bài thơ cũng thật cân xứng hợp lí. Cũng là bữa ấy có mùa xuân, có hoa xoan, có hội chèo làng Đặng. Nhưng lại có sự đối lập rõ rệt:


    Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

    Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát nay”…

    Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”


    Sự cân xứng và đối lập ấy càng làm nổi rõ được cái tình trong bức tranh quê. Làm nổi bật những cung bậc cảm xúc, những rung cảm tinh tế trong tâm hồn con người. Mưa xuân đã không còn như trước, cả hoa xoan cũng không còn như trước vì “mùa xuân đã cạn ngày”. Mùa xuân đã cạn khi anh không đến.


    Mùa xuân đã hết khi mối tình đầu tan vỡ. Ở đây, mùa xuân là của đất trời hay là mùa xuân của lòng người, của tình yêu? Có lẽ là cả hai? Chỉ một chủ “cạn” nhưng nó lại khái quát bao điều không thể nói. Nguyễn Bính đã nói được những tình ý kín đáo nhất trong tâm hồn con người”. Chữ “cạn” vừa là sự kết thúc, nhưng đồng thời nó cũng là sự mở đầu


    Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày


    Từ một cuộc hẹn không thành mà cơ duyên vĩnh viễn trôi. Nỗi đau khổ đầu đời như một tì vết sâu cứa vào tâm hồn em vào trái tim thơ trẻ của em. Những tưởng rằng mùa xuân đã cạn ngày thì tình yêu cũng chết trong em. Nhưng không. Khổ thơ cuối là sự bùng cháy mãnh liệt ngọn lửa khao khát yêu thương trong em. Đó là một sự tha thứ cho lỗi lầm muôn thuở trong tình yêu?


    Hay là sự hồi sinh muốn sống lại sự yêu đời trong trắng trong em? Cô gái đã tha thứ tất cả và lại hi vọng vào tất cả. Vào tình yêu, vào mùa xuân, vào cuộc sống. Những “biến âm buồn trong nét nhạc” làm cho đêm chèo cùng trở nên lung linh huyền ảo.


    Tưởng chừng như quá phũ phàng vói em, tưởng chừng như tất cả chỉ là ảo vọng vụt tan biến như bóng mây, nhưng cuối cùng niềm tin và hi vọng trong ẹm đã chiến thắng.


    Bao giờ em mới gặp anh đây

    Bao giờ hội Đăng đi ngang ngõ

    Để mẹ em rằng hát tối nay?


    “Mưa xuân” là nỗi lòng của những kẻ đang yêu, của những chàng trai, cô gái thôn quê, của chính tâm hồn thi sĩ. Cũng ấm ức tủi hờn với cô gái, để rồi lại băn khoăn, trăn trở, bàng hoàng trước những sự đối lập của cuộc đời. Ta băn khoăn tự hỏi mình: phải chăng đó chính là cõi lòng ta?

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  11. Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của nền văn học Việt Nam thế kỷ 20. Ông được biết đến với phong cách thơ lãng mạn, giàu cảm xúc và tinh tế, và thường xuyên viết về tình yêu, thiên nhiên, và cuộc sống thường nhật.


    Dưới đây là một số điểm nổi bật về Nguyễn Bính:

    • Phong cách thơ: Nguyễn Bính nổi tiếng với phong cách thơ lãng mạn, trữ tình. Thơ của ông thường thể hiện những cảm xúc sâu lắng, nhẹ nhàng và tinh tế. Ông có khả năng tạo ra những hình ảnh đẹp và cảm xúc chân thành qua các bài thơ của mình.
    • Tính dân tộc và truyền thống: Nguyễn Bính viết nhiều bài thơ theo thể thơ dân tộc như thơ lục bát, và ông thường kết hợp các yếu tố văn hóa và truyền thống dân tộc vào trong tác phẩm của mình. Ông có sự hiểu biết sâu sắc về các giá trị văn hóa và tâm hồn dân tộc, điều này giúp thơ của ông gần gũi và dễ cảm nhận.
    • Chủ đề chính: Thơ của Nguyễn Bính thường xoay quanh các chủ đề như tình yêu, thiên nhiên, và cuộc sống thường ngày. Ông thể hiện sự quan tâm đến những điều giản dị trong cuộc sống và có khả năng làm cho những chủ đề quen thuộc trở nên mới mẻ và ý nghĩa.
    • Những tác phẩm tiêu biểu: Một số tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Bính bao gồm tập thơ "Lỡ bước sang ngang," "Câu thơ Yên Thế," và "Mộng Cầm Thúy." Những bài thơ này phản ánh phong cách và nội dung đặc trưng của ông.
    • Cuộc đời và ảnh hưởng: Nguyễn Bính sống trong thời kỳ đầy biến động của lịch sử Việt Nam, và cuộc đời của ông cũng bị ảnh hưởng bởi các sự kiện lịch sử và xã hội. Mặc dù không phải là một nhà thơ chính trị, thơ của ông vẫn có giá trị văn hóa và nghệ thuật lớn, và ông được xem là một trong những tiếng nói quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.


    Nguyễn Bính là một tác giả quan trọng trong nền thơ ca Việt Nam, và phong cách lãng mạn, trữ tình của ông vẫn được nhiều người yêu thích và nghiên cứu.

  12. Bài thơ là một câu chuyện tình cảm, hay đúng hơn là một mối cảm tình mới nhóm, diễn ra trên cái nền của một làng quê vào cữ mưa xuân. Cảnh trí ở đây được dùng làm đất sống cho câu chuyện tình và đến lượt câu chuyện tình lại tạo nên phần hồn cho cảnh. Và như thế cảnh và tình trong "Mưa xuân" đã quyện vào nhau như xác với hồn, để cùng tạo nên bức tranh quê chân thực và sống động, mang đậm dấu ấn Nguyễn Bính.





Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy