Top 6 Bài văn phân tích bài thơ "Tự tình I" của Hồ Xuân Hương (Ngữ văn 10) hay nhất

  1. Top 1 Bài tham khảo số 1
  2. Top 2 Bài tham khảo số 2
  3. Top 3 Bài tham khảo số 3
  4. Top 4 Bài tham khảo số 4
  5. Top 5 Bài tham khảo số 5
  6. Top 6 Bài tham khảo số 6

Top 6 Bài văn phân tích bài thơ "Tự tình I" của Hồ Xuân Hương (Ngữ văn 10) hay nhất

Thai Ha 1856 0 Báo lỗi

Trong nền văn học Việt Nam thời bấy giờ, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo khi viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm chất văn học dân gian. Nổi bất ... xem thêm...

  1. Thi sĩ Xuân Diệu vinh danh nữ sĩ Hồ Xuân Hương là "Bà chúa thơ Nôm. Nữ sĩ để lại khoảng 50 bài thơ Nôm theo thể thất ngôn tứ tuyệt hoặc thất ngôn bát cú Đường luật.


    Chùm thơ "Tự tình" gồm có 3 bài; đây là bài thứ nhất:

    "Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom...

    ... Tài tử văn nhân ai đố tá?

    Thân này đâu đã chịu già tom!"


    Mở đầu bài thơ, hai câu đề gợi ra một không gian bao la, mờ mịt từ bom thuyển ở nơi dòng sổng đến khắp mọi chòm xóm, thôn làng. Người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Tiếng gà gáy "văng vẳng" trên bom thuyền từ xa đưa tới. Đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy "văng vẳng" như thế. Nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy) để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng "oán hận" của người phụ nữ thao thức suốt những canh trường. Nàng ngồi dậy, lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh, rồi "trông ra" màn đêm mịt mùng. Màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận:


    "Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

    Oán hận trông xa khắp mọi chèm ".


    Hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh "mổ thảm" và "chuông sầu" đối nhau, hô ứng nhau, cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của riêng mình đang sống trong cảnh ngộ quá lứa 15 thì, trắc trở trong tình duyên. Vần thơ đầy ám ảnh. Phủ định để khẳng định tiếng "cốc" của "mổ thảm", tiếng "om" của "chuông sầu". Nữ sĩ đã và đang trải qua những đêm dài thao thức và cô đơn, đau cho nỗi đau của đời mình cô đơn như "mõ thảm", chẳng ai khua "mà cũng cốc"; tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ bóng chăn đơn như "chuông sầu" chẳng đánh "cớ sao om". Nỗi oán hận, đạu buồn sầu tủi như thấm vào đáy dạ, tê tái xót xa, như đang toả rộng trong không gian "khắp mọi chòm", như kéo dài] theo thời gian của những đêm dài. "Om" là tiếng tượng thanh, tiếng chuông sầu, cũng là gợi tả nỗi thảm sầu tê tái, đau đớn đến cực độ. Câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ thảm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than, như một tiếng thở dài tự thương mình trong nỗi buồn ngao ngán:


    "Mớ thảm không khua mà cũng cốc y,

    Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?"


    Có biết thời con gái, Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ tươi xinh, phơi phới như 'Thân em vừa trắng lại vừa tròn" (Bánh trôi nước), "Hai hàng chân ngọc duỗi song song" (Đánh đu),... ta mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.


    Lời than tự tình trong cô đơn được khơi sâu trong phần luận, để mà "rầu rĩ' thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu.


    "Trước nghe" đối với "sau giận", "tiếng" hô ứng với "duyên"; "rầu rĩ" là tâm trạng đối với "mõm mòm" là trạng thái. "Trước nghe nhưng tiếng..", là những tiếng gì? — Tiếng của miệng thế gian? Hay tiếng gà văng vẳng gáy, tiếng "chuông sầu", tiếng "mõ thảm" đang "cốc", đang "om" trong lòng mình? Giữa canh khuya thao thức, càng nghe càng thêm "rầu rĩ", buồn tủi. Giữa lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng "giận", càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Tinh duyên của mình được ví với trái cây, không còn "má hây hây gió" (Xuân Diệu) nữa mà đã chín "mõm mồm", nghĩa là quá chín, đã nẫu đi! Duyên "mõm mồm" là duyên phận hẩm hiu, quá lứa lỡ thì! Trong câu thơ như có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, vừa than thân trách phận, vừa buồn tủi về con đường tình duyên. Tiếng thơ tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương mình, đồng thời thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ đã luống tuổi mà vẫn cô đơn lẻ bóng: "Giật mình mình lại thương mình xót xa" (Truyện Kiều).


    Phẩn kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Như một sự thách đố với số phận, với duyên số. Nữ sĩ vẫn "bướng bỉnh" trước bi kịch cô đơn của mình khi "duyên để mỏm mỏm" rồi:


    "Tài tử văn nhân ai đó tú?

    Thân này dâu đã chịu già tom!"


    Vừa nghi vấn, vừa cảm thán, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn còn tin vào tài năng của mình có thể làm xoay chuyển được duyên phận, vẫn hi vọng tìm được bạn đòi trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6 nữ sĩ viết: "Sau giận vì duyên để mõm mòm", câu 8 bà lại viết: Thân này đâu dã chịu già tom! "Già tom " nghĩa là rất già, già hản, khô quắt đi! ! Đó là một cách "nói cứng" thể hiện một thái độ "bướng bỉnh", một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời. Đọc chùm thơ "Tự tình" cũng như tìm hiểu cuộc đời của nữ sĩ, về mặt tình duyên, ta thấy hạnh phúc tình yêu chưa một lần mỉm cười với Xuân Hương. Bài thơ "Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu" (Nhớ người cũ, viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Du - tước hầu) như một bóng quang âm soi tỏ một "mảnh tình riêng" của "Bà chúa thơ Nôm", giúp ta cảm nhận bài thơ "Tự tình" này:


    "Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,

    Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.

    Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,

    Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.

    Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,

    Phấn son cùng tủi phận long đong.

    Biết còn mảy chút sương sều mấy,

    Lâu nguyệt năm canh chiếc bóng chong".


    Bài thơ "Tự tình " gieo vần "om", năm vần thơ, vần nào cũng hóc hiểm, tài tình: "bom-chòm-om-mòm-tom". Những vần thơ hóc hiểm ấy, một mặt thể hiện bút pháp điêu luyện, mặt khác đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén lại cái "oán", cái "hận", cái "ngang bướng" của một tâm trạng - một cá tính rất Xuân Hương. Duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ là nội dung đầy ám ảnh đối với mỗi chúng ta khi đọc bài thơ "Tự tình" này của Xuân Hương. "Tự tình" là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, về bi kịch tình yêu, là niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ. Vì lẽ đó, "Tự tình" mang giá trị nhân bản sâu sắc.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Hồ Xuân Hương được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm, là nữ thi sĩ tài ba bậc nhất của văn học Trung Đại Việt Nam. Tình duyên của bà khá lận đận, hai đời chồng nhưng vẫn làm lẽ. Bà nổi tiếng là xinh đẹp, thông minh, sắc sảo, phóng túng, cá tính và tài ba. Bà đi rất nhiều nơi, giao thiệp rộng và gặp gỡ nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Du. Bà sáng tác cả chữ nôm và chữ hán và đều có giá trị nội dung cao. Trong nền văn học Việt Nam thời bấy giờ, bà là hiện tượng rất độc đáo khi viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm chất văn học dân gian. Nổi bất trong các tác phẩm thơ của bà đều là tiếng nói thương cảm cho thân phận người phụ nữ, khẳng định đề cao cái đẹp và khát vọng hạnh phúc của họ. Một trong những bài thơ đặc sắc của bà phải kể đến Tự Tình I nằm trong chùm thơ Tự Tình của Bà. Bài thơ viết theo thể thơ Đường Luật và là nỗi thương mình trong sự cô đơn khi phải chịu cảnh làm lẽ, qua đó cũng thể hiện khát khao sống hạnh phúc, vượt lên hoàn cảnh.


    Ngay mở đầu bài thơ là thời điểm canh khuya, thời gian về đêm con người thường sẽ rất cô đơn, nhìn ra được chính tình cảnh của mình, đối diện với chính mình Hồ Xuân Hương mới thấy mình thật đáng thương:


    Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

    Oán hận trông ra khắp mọi chòm.


    Không gian hiện lên là đêm khuya tĩnh lặng với tiếng gà gáy văng vẳng từ trên bom thuyền vang khắp xóm. Đêm càng tĩnh, tiếng gà càng vang nghe rất nhức nhối. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy tiêng gà tả màn đêm tĩnh mịch, u buồn. Canh khuya, khi mọi người chìm trong giấc ngủ say nồng thì nữ thi sĩ vẫn còn thức, vẫn còn đang nghĩ về cuộc đời mình. Trong đêm vắng, nỗi oán hận dường như bủa vây con người, tâm trí và cả không gian xung quanh. Nỗi oán hận khiến nàng không thể ngủ được và thao thức suốt canh trường.


    Trong lòng thì ôm nỗi oán hận nỗi thương cảm cho cuộc đời làm lẽ của mình, trông ra ngoài thì màn đêm mù mịt tĩnh lặng cô đơn u buồn chỉ nghe tiếng gà gáy văng vẳng eo óc, gai góc khiến nỗi cô đơn càng cô đơn hơn.


    Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

    Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.


    Nỗi cô đơn u uất càng ngày càng lớn hơn khi sang câu 3,4 tác giả sử dụng hình ảnh Mõ – chuông; cốc – om. Đây là hai hình ảnh đối xứng với nhau khiến cho nỗi cô đơn buồn tủi càng kéo dài hơn. Mõ không khuya mà cũng có tiếng kêu, chuông không đánh mà cũng vẫn om. Có khác gì cuộc đời nàng, cô đơn lẻ loi với thân phận làm lẽ, tưởng được hạnh phúc ai ngờ lại “kẻ đắp chăn chung, kẻ lạnh lùng”. Nỗi oán hận, đau đớn như kéo dài khắp mọi chòm, khắp không gian, tê tái xót xa lại nghe văng vẳng tiếng chuông sầu, tiếng mõ om dù không ai khuya, ai đánh nhưng trong lòng của nàng lại luôn nghe thấy. Trong câu thơ, tác giả sử dụng nghệ thuật vì tình sinh cảnh, vì tình trong lòng mình mà sinh ra cảnh bên ngoài. Cảnh không có mà lòng vẫn có. Lòng buồn khiến cho cảnh cũng u uất buồn theo.


    Câu hỏi tu từ trong câu thơ “Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?” làm cho giọng thơ thảm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than “cớ sao?” , một tiếng thở dài ngao ngán.


    Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

    Sau giận vì duyên để mõm mòm.


    Nếu tìm hiểu kĩ về Hồ Xuân Hương hẳn bạn sẽ biết Hồ Xuân Hương là phụ nữ đẹp, thông minh, sắc sảo. Cuộc đời một người phụ nữ thông minh như bà lẽ ra phải hạnh phúc, tìm được duyên như ý. Nhưng không tình duyên bà lận đận, cuộc đời làm lẽ, hồng nhan bạc mệnh. Trong một số bài thơ bà viết , đã từng có những bài thơ miêu tả gián tiếp chân dung bà như: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn – Bánh trôi nước” hay “ Hai hàng chân ngọc duỗi song song – Đánh Đu”. Qua một số ý thơ bạn đọc hẳn hiểu được rằng bà đã từng rất đẹp, là một người phụ nữ khiến cho nhiều người mê mẩn. Vậy mà giờ đây, thân phận lẽ khiến cuộc đời bà chỉ còn nỗi u sầu, bà làm lẽ tới 2 lần thì còn gì sầu hơn?


    Bài thơ tự tình chính là tự sự về nỗi buồn của bà, về duyên phận hẩm hiu. Trước đây vẫn nghe những tiếng rẫu rì, rì rầm? Đó là tiếng gì? Đó phải chẳng là những lời nhận xét không hay về cuộc đời bà, đó là miệng lưỡi thế gian? Hay đó là tiếng lòng rầu rĩ của bà là tiếng chuông sầu, tiếng mõ om , tiếng gà văng vẳng eo óc trong đêm khuya? Để rồi sau lại giận vì duyên để mõm mòm. Bà buồn, ba giận vì tình duyên lỡ làng, bà đã qua cái tuổi xuân thì, tình duyên đã quá chính, đã quá nẫu.


    Hai câu thơ chính là tiếng thở dài ngao ngán, buồn tủi về cuộc đời của bà, về con đường tình duyên trắc trở. Bà khao khát hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc không đến với bà. Bà tự biết mình đã qua tuổi xuân thì phơi phới, duyên đã quá nẫu. Một tiếng thở dài, than thân trách phận.


    Câu thơ cũng là tự mình thức tỉnh, tự mình thương lấy thân phận mình, thương lấy những người đàn bà cùng luống tuổi, cùng cảnh ngộ, thì ra mình cũng đã toan về già, vẫn còn cô đơn lẻ bóng “Giật mình mình lại thương mình xót xa” (Truyện Kiều).


    Những câu thơ trên là tự trách, là buồn tủi, là thương xót cho thân phận hẩm hiu, tình duyên bẽ bàng. Nhưng hai câu kết dường như lại đảo ngược lại với tâm trạng trên, nó là sự thách thức trước bi kịch cuộc đời:


    Tài tử văn nhân ai đó tá?

    Thân này đâu đã chịu già tom!


    Đúng với tính cách của Hồ Xuân Hương, một người phụ nữ bướng bỉnh, cá tính, mạnh mẽ. Bà không chịu đầu hàng số phận, bà muốn vượt lên trên nghịch cảnh vẫn đi tìm cho mình một nam nhân trong đám tài tử văn nhân. Bà vẫn khao khát hạnh phúc và không chịu khuất phục trước sự sắp xếp của số phận. Đặc biệt câu thơ: “Thân này đầu đã chịu già tom” càng khẳng định sự bướng bỉnh trong thơ và tính cách của Hồ Xuân Hương.


    Nếu câu thơ Sau giận vì duyên để mõm mòm cho thấy được sự tỉnh thức của bà về tuổi xuân, về tình duyên đã quá lứa lỡ thì mà cô đơn, thì sang câu Thân này đâu đã chịu già tom cho thấy sự biến chuyển về suy nghĩ, vượt lên nghịch cảnh, sự bướng bỉnh trong tín cách. Hay nói đúng hơn đây là bản lĩnh cứng cỏi của Hồ Xuân Hương trước cuộc đời, một người phụ nữ tuy tình duyên lận đận nhưng chưa bao giờ ngưng khát vọng, ngưng tìm hạnh phúc.


    Với nghệ thuật gieo vần om vô cùng tài tình hiểm hóc: “bom-chòm-om-mòm-tom” cùng với tâm trạng oán, cái hận, giận, cái ngang bướng đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén của một tâm hồn ca tính, bướng bỉnh nhưng cũng rất trữ tình. Bà chính là một hiện tượng cá tính, độc đáo trong thơ ca thời trung đại, dám nói lên nỗi lòng mình, dám khao khát tìm hạnh phúc. Dù các nhà thơ như Nguyễn Du hay Đặng Trần Côn cũng có tiếng nói bênh vực phụ nữ nhưng nó chưa đủ mạnh đủ khát khao như Hồ Xuân Hương. Tiếng nói của bà chính là tiếng lòng phụ nữ, bà là phụ nữ bà hiểu khao khát nó mãnh liệt thế nào và toàn tâm toàn ý cho hạnh phúc của người phụ nữ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam trong thời kì trung đại. Những tác phẩm của bà thể hiện tinh thần nữ quyền sâu sắc và bài thơ chùm thơ Tự tình là một trong những dân chứng tiêu biểu. Và đây là bài Tự tình 1:


    "Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

    Oán hận trông ra khắp mọi chòm

    Mõ thảm không khua mà cũng cốc

    Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om

    Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

    Sau giận vì duyên để mõm mòm

    Tài tử văn nhân ai đó tá

    Thân này đâu đã chịu già tom”


    Trước hết ta tìm hiểu nhan đề của bài thơ Tự tình. Tự tình ở đây là tình cảm tự bộc lộ ra, đó chính là tâm trạng bộc bạch của chính người trong cuộc, đó là lời của tâm hồn, lời của con tim khao khát hạnh phúc cháy bỏng, đó là tiếng nói phẫn uất đau đớn xót xa


    Mở đầu bài thơ, hai câu đề khái quát không gian, thời gian làm nền cho tâm trạng. Thời gian được thể hiện qua câu "Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” với âm thanh văng vẳng trống canh dồn. Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận âm thanh bằng thính giác mà còn là sự cảm nhận về sự trôi đi của thời gian


    Người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Tiếng gà gáy "văng vẳng" trên bom thuyền từ xa đưa tới. Đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy "văng vẳng" như thế. Cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng "oán hận" của người phụ nữ thao thức suốt những canh trường. Trong đêm khuya thì hình ảnh cô đơn lẻ loi càng được thể hiện rõ và nó trở thành một hình tượng thơ thể hiện được hình tượng người phụ nữ buồn tủi, những lời tâm sự thủ thỉ từ trong đáy lòng


    Hình tượng thơ ở đây đã mang một âm hưởng nhẹ nhàng và nó tác động đến cảm xúc của người nghe khi hình tượng tiếng gà gáy văng vẳng trên bom, trong đêm khuya đó mọi người vẫn nghe thấy tiếng gà văn vẳng gáy nó mang những âm thanh về một cuộc chiến đấu và những nỗi hiu quạnh trong tâm hồn con người


    Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

    Oán hận trông ra khắp mọi chòm.


    Đằng sau cái tiếng gà gáy sáng văng vẳng áy ẩn sau một tâm trạng xót xa, buồn bã, cô đơn. Lúc này con người đã tình giấc đối diện với chính mình. Tiếng gà như một âm thanh chát chúa dội vào tâm trạng cô đơn của nữ sĩ khiến cho bà cất lên những lời đầy oán hận Hai câu thực nhà thơ đã diễn tả nỗi uất ức xót xa như chìm sâu vào trong tâm hồn nhà thơ đầy bất hạnh:


    Mõ thảm không khua mà cũng cốc

    Chuông sầu không đánh cớ sao om.


    Trong hai câu thơ trên, nhà thơ đã mượn hình ảnh khách quan nhằm lột tả niềm đau đớn xót xa bế tắc của mình. Chuông sầu, mõ thảm là những thứ gợi lên cảm giác buồn đau cô đơn lạc lõng. Đó là tiếng của sự vật nhưng cũng là tiếng nói của nỗi lòng, tiếng của sự bất hạnh giữa dòng đời. Tiếng chuông chùa không ngân lên vang vọng thành hơi mà vọng lại một tiếng nghe thật ảm đạm làm sao. Tiếng” om “ được sử dụng rất đắt thể hiện rõ sự bế tắc xót xa trước cuộc đời đen bạc, bất công.


    Bốn câu thơ đầu ta đã hiểu rõ được sự phẫn uất bất hạnh xót xa bế tắc trong cuộc đời của nữ sĩ tài hoa. Sự bất hạnh đó phần nào được lí giải ở hai câu luận của bài:


    Trước nghe những tiếng thêm rầu rỉ

    Sau giận vì chuyên để mõm mòm.


    Hai tiếng thêm rầu rĩ nói lên sự chua cay chát chúa đó. Từ chuyện nhân thế chuyển về chuyển riêng tư sau giận vì cái duyên mõm mòm cũng không phải tại mình mà duyên phận cứ nổi nênh, bạc bẽo: Cảnh quá lứa lỡ thì chua chát biết bao. Qua sáu câu thơ trên phần nào ta đã thấy được sự bất hạnh trong cuộc đời, nỗi chua cay thất vọng chán thường, ta hiểu được phần nào nguyên nhân gây nên những bất hạnh xót xa đó. Tất cả những cái đó ta có cảm tưởng như Xuân Hương không đứng vững nổi trước sóng gió xô đẩy của cuộc đời. Nhưng không, Hồ Xuân Hương vẫn hiên nang thách thức với một tư thế vô cùng ngạo nghễ.


    Tài tử văn nhân ai đó tá

    Thân này đâu đã chịu già tom.


    Đó mới đúng là với bản chất thực sự của Hồ Xuân Hương, mới đúng là con người luôn luôn đấu tranh cho mọi bất công ngang trái ở đời. Dám yêu, dám hận. dám hiên ngang đối diện với dư luận, với những ngang trái, bất công.


    Đọc bài thơ, ta cảm nhận sự bất hạnh cay đắng cho thân phận nữ sĩ nhưng cũng cảm phục trân trọng sự đấu tranh cho quyền được sống hạnh phúc chính đàng của con người. Bài thơ Tự tình này chính là nét tiêu biểu cho hồn thơ trữ tình của Xuân Hương.


    Hồ Xuân Hương là nhà thơ chịu nhiều đau khổ về đường tình duyên vì vậy bà rất phẫn uất trước những hình ảnh của người phụ nữ khi phải chịu nhiều đau đớn và tủi hổ. Nhưng bà lại rất nổi bật với phong cách văn chương và cá tính cá nhân riêng biệt. Những bài thơ viết về phụ nữ của bà đều rất hay và đáng quý.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Hồ Xuân Hương có ba bài thơ Tự tình. Những bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương thuộc dòng thơ trữ tình thuần khiết, cũng dữ dội nhưng không có yếu tố trào lộng, dục và tục. Sau những hành vi bỡn cợt, châm biếm, sau những tiếng cười phá phách, nữ sĩ đa tình này lại trở về với cõi lòng tịch mịch của chính mình. Ngay cả trong những dòng tâm tư sầu thảm, oán hờn này, chúng ta cũng nhận ra tài hoa và bản lĩnh của một người đàn bà tuyệt vời.


    TỰ TÌNH (I)
    Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

    Oán hận trông xa khắp mọi chòm

    Mõ thảm không khua mà cũng cốc

    Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om

    Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ

    Sau giận vì duyên để mõm mòm

    Tài tử văn nhân ai đó tá

    Thân này đâu đã chịu già tom


    Mở đầu bài thơ là một âm thanh xao xác:

    “Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

    Oán hận trông xa khắp mọi chòm”


    Tác giả lựa âm “om” (khổ vận) thật là độc đáo. Âm “om” tượng hình, âm thanh phát ra trong một cái vòm (Vòm trời thì dưới mắt Xuân Hương cũng là một cái vòm thôi) luẩn quẩn không thoát ra được, thật hợp với tâm trạng ấm ức, tấm tức của nhân vật trữ tình. Cái không gian nghệ thuật ở đây cũng thật là đặc biệt và tiềm ẩn không ít bí mật. Nữ sĩ đang ở đâu mà nghe “tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”? “Trên bom” là ở đâu? Nhiều nhà nghiên cứu có nói là từ “bom” không hiểu rõ. “Văn học 11” (Ban KHXH) chú giải là “phía sau một con thuyền nơi người dân chài thường nuôi gà nhốt trong bu”. Như vậy là ở đây có một con thuyền trong đêm tối, cũng có thể lắm vì trong nhiều bài thơ viết về thân phận của nữ sĩ thường có hình ảnh con thuyền, ngay trong bài Tự tình (III) cũng có con thuyền: “Chiếc bánh buồn về phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”


    Thân phận của Xuân Hương như con thuyền lênh đênh trong bóng tối. “Tiếng gà văng vẳng” tàn canh làm thức dậy nỗi đau đớn xót xa đến nỗi âm thanh lan tỏa đến đâu thì “oán hận” tràn ra ngùn ngụt đến đó. Đây không còn là nỗi “oán hận” của một cá nhân mà là nỗi oán hờn của những kiếp hồng nhan bất hạnh trong xã hội bấy giờ.


    Tiếng gà đã thức dậy nỗi đau của kiếp hồng nhan, rồi nỗi đau, nỗi thảm sầu nhiễm vào từng âm thanh của buổi tàn canh bất kể tiếng kim hay tiếng mộc:


    “Mõ thảm không khua mà cũng cốc

    Chuông chùa chẳng đánh cớ sao om”


    Sự kết hợp từ ngữ của Xuân Hương biến hóa lạ lùng, mõ thì mõ thảm, chuông thì chuông sầu. tác giả đã nội tâm hóa âm thanh của ngoại cảnh, khiến cho người nghe tưởng đấy là tiếng lòng của nữ sĩ. Chính tiếng gà đã thức dậy nỗi đau thương khắc khoải, chính tiếng gà tàn canh đã làm giật mình kẻ hồng nhan, làm khua lên nỗi thảm thành âm thanh khô khốc: “cốc”, đã đánh lên tiếng sầu não ruột, tối tăm: “om”. Một hòa âm thảm sầu của ngoại cảnh và lòng người đã tấu lên trong buổi tàn canh. Nhưng lắng nghe thật kĩ, ta nhận ra hòa âm thảm sầu ấy dội lên thật mạnh mẽ với những thanh trắc (tiếng, hận, thảm, cớ…) với những động từ (gáy, khua, đánh). Thành ra hòa âm thảm sầu bi mà không lụy, nỗi buồn của một sức sóng mãnh liệt. Tiếng lòng ấy như có sự cựa quậy cưỡng lại sự phũ phàng của người đời, sự nghiệt ngã của duyên kiếp.


    Chuyển sang hai câu luận, tác giả trực tiếp bộc lộ nỗi lòng của mình:

    “Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ

    Sau giận vì duyên dể mõm mòm”


    Không đặc sắc như hai câu thực, nhưng hai câu luận cũng bộc lộ được tâm trạng thật của nữ sĩ, một nỗi buồn tàn duyên rất con người, rất đàn bà. Chữ nghĩa hình tượng cũng tài hoa. Cái trừu tượng (duyên) đã trở thành cái cụ thể (để mõm mòm). Trong cái khó (khổ vận) của vần, Hồ Xuân Hương vẫn khám phá được hình tượng xác đáng, đầy cảm xúc. Nói về sự “toan về già”, về sự “hết duyên” có gì hay hơn hình ảnh “mõm mòm” như trái chín rục, chín úng. Mà quả thật, đường tình duyên, hôn nhân của Hồ Xuân Hương cũng quá hẩm hiu. Lấy chồng muộn mà cả hai đời chồng đều làm lẽ và sớm trở thành góa bụa. Nhưng Xuân Hương vẫn không chịu “hạ mình”, vẫn hướng đến những “đối tượng” mà nữ sĩ có thể đồng cảm được, kêu gọi, thách thức:


    “Tài tử văn nhân ai đó tá

    Thân này đâu đã chịu già tom”


    Tứ thơ chuyển thật bất ngờ. Mà cũng chỉ có Xuân Hương mới đủ sức mạnh tinh thần để gượng dậy trong nỗi buồn tê tái như thế. Nữ sĩ hướng đến “tài tử văn nhân” (hướng đến chứ không phải là hướng lên vì thật khí có tài tử văn nhân nào trên Hồ Xuân Hương) là hướng đến những gì tốt đẹp của chính tâm hồn nữ sĩ. Xuân Hương chỉ đồng cảm với các bậc “tài tử văn nhân”, các bậc tao nhân mặc khách chứ không phải vì chín “mõm mòm” mà rụng vào tay bất cứ kẻ nào. Có một nỗi khát vọng trong lời kêu gọi vô vọng đó. Nữ sĩ kêu lên một tiếng càng làm tăng lên vẻ tịch mịch của cõi lòng như tiếng gà buổi tàn canh càng tăng thêm vẻ vắng lặng của không gian. Nhưng rồi Hồ Xuân Hương vẫn lộ ra bản lĩnh của mình, bản lĩnh của một người phụ nữ ý thức sâu sắc về cá nhân, về quyền sống, sẵn sàng thách đố lại với duyên phận.

    “Thân này đâu đã chịu già tom”


    Vần om là một vần tối. Với Hồ Xuân Hương, bóng tối không ngoài sự cô độc, hẩm hiu, góa bụa, già nua. Xuân Hương đã cưỡng lại bằng một tinh thần mãnh liệt. Tưởng chừng đằng sau vần om (tom) đầy bóng tối đó là một nụ cười, tre trung, tinh nghịch, thách đố lại với định mệnh oan nghiệt.


    Ba bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương đều hay, mỗi bài hay một vẻ. Bài Tự tình (I), trong khuôn khổ chật hẹp của thơ Đường, lại gieo vần hóc hiểm vậy mà nữ sĩ họ Hồ vẫn hồn nhiên bộc bạch tình cảm chân thành, nồng nhiệt. Lời thơ nôm thuần Việt, không điển cố, ngoại cảnh và nội tâm hòa quyện trong hình ảnh và nhạc điệu. Ấn tượng sâu đậm của Tự tình (I) là bài thơ đã thể hiện được bản lĩnh của Hồ Xuân Hương, một người phụ nữ tài hoa có sức sống mãnh liệt không chịu khuất phục trước số phận hẩm hiu, nghiệt ngã. Giá trị nhân văn của bài thơ thật là cao cả!

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Trong chế độ phong kiến thân phận lẽ mọn của người phụ nữ là một đề tài khá hay và được nhiều người lấy để làm nguồn cảm hứng sáng tác. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của người phụ nữ từ xưa tới nay.


    Nó góp phần thể hiện tinh thần nhân đạo của những người làm nghệ thuật cũng như nền văn học. Chùm thơ Tự tình là một tác phẩm tiêu biểu của nói lên tình cảnh của người phụ nữ xưa, được tác giả Hồ Xuân Hương phản ánh.


    Trong không gian thanh vắng, tĩnh mịch của buổi đêm trong tiếng trống cầm cánh thể hiện thời gian đang tí tách trôi qua. Canh khuya hoang vắng chính là thời gian khiến cho con người cảm thấy cô đơn khắc khoải. Nỗi lòng của người con gái càng thêm buồn bã trông mong, chờ đợi một điều gì đó.


    Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

    Oán hận trông ra khắp mọi chòm.

    Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

    Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.

    Trước nghe những tiếng thêm rầu rỉ,

    Sau giận vì duyên để mõm mòm.

    Tài tử văn nhân ai đó tá?

    Thân này đâu đã chịu già tom!


    Nhưng càng mong ngóng chờ đợi lại càng cảm thấy thất vọng. Tiếng trong canh ngoài kia cứ ngày một dồn dập thể hiện cho tâm trạng của người con gái càng hồi hộp mong ngóng. Nó thể hiện sự chờ mong trong tuyệt vọng của người phụ nữ.


    Tác giả Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ phận làm lẽ, cô đơn chờ mong người chồng của mình tới. Cảnh đêm tĩnh mịch khiến cho người phụ nữ càng cảm thấy trơ trọi bơ vơ, thân phận phụ nữ với nước non, tình yêu.


    Trong hai câu thơ tiếp theo, tác giả Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng chờ đợi của người chồng của mình. Những câu thơ thể hiện đầy ẩn ý, chén rượu hương đưa, thể hiện sự uống rượu giải sầu của người phụ nữ, thể hiện sự cùng quẫn bí bách trong tâm trạng của người phụ nữ khi phải chịu cảnh chung chồng.


    Trong cảnh khuya vầng trăng bóng xế, thể hiện sự suy tàn của vầng trăng chưa kịp tròn đã tàn, thể hiện cảm xúc của người phụ nữ, chưa kịp hạnh phúc trọn vẹn ngày nào thì đã phải chịu cảnh ly tan, rời xa, hạnh phúc dở dang. Nếu như bốn câu thơ đầu thể hiện tình thể hiện tình trạng chờ đợi mòn mỏi, tuyệt vọng, thể hiện sự buông xuôi của người con gái, của người phụ nữ


    Tiếng chuông sầu kêu lên bằng sự vô tri vô giác kia, thể hiện sự chuyển giao thời gian, từng khoảnh khắc trôi đi là cảnh đêm càng thêm tĩnh mịch càng làm cho tâm tưởng của người phụ nữ cảm thấy cô liêu trống vắng


    Tài tử văn nhân ai đó tá?

    Thân này đâu đã chịu già tom!


    Những dồn nén bức bối, đập phá của tâm trạng nhà thơ thể hiện sự bộc phát của tâm trạng con người, thể hiện sự cô đơn bức bối trong tâm trạng chán chường, bất lực, không chấp nhận và cam chịu cảnh phận thê thiếp.


    Câu thơ thể hiện sự ngán ngẩm, chán chường, chứa đựng bao nhiêu thời gian và sự chán ngán khi mà cuộc sống cứ trôi đi và thời gian ngày càng kéo tới người thi sĩ cũng già đi theo năm tháng, tuổi xuân danh tiếng cũng không còn lại là bao.


    Hai câu thơ khép lại bài thơ như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ về thân phận lẽ mọn, về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người con gái xưa không có cơ hội trọn vẹn trong xã hội xưa cũ.


    Bài thơ chính là lời than thở số phận hẩm hiu của người phụ nữ khi chịu cảnh chung chồng của người phụ nữ xưa, thể hiện thái độ bi quan, chán nản của người con gái khi phải sẻ chia chồng với người ta


    “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

    Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”


    Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật thể hiện sự khát vọng hạnh phúc đôi lứa không trọn vẹn của người phụ nữ trong thân phận, hoàn cảnh lẽ mọn. Hiện thực vô cùng phũ phàng người phụ nữ vẫn trong thời kỳ xuân sắc nhưng sớm chịu cảnh hẩm hiu, cô quạnh.


    Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả Hồ Xuân Hương với sự bất hạnh của người phụ nữ xưa khi phải chịu cảnh chung chồng của chế độ đa thê trong chế độ phong kiến. Những cam chịu của con người trước cuộc sống “Trọng nam khinh nữ” bất cập.


    Bài thơ diễn tả một tình cảnh đáng thương một số phận đáng thương, cần phải sẻ chia cảm thông, cho khát vọng tình yêu trọn vẹn. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn phải phụ thuộc số phận của mình vào người khác không được tự ý lựa chọn. Đó chính là bi kịch không thể giải tỏa, vì thế giọng bài thơ của tác giả Hồ Xuân Hương vừa ai oán, thê lương, vừa thể hiện phong cách phóng khoáng của con người tác giả.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Thật không thể sai một chút nào khi sĩ Xuân Diệu đã vinh danh nữ sĩ Hồ Xuân Hương chính là "Bà chúa thơ Nôm”. Và trong những sáng tác “nhớ mặt đặt tên” của nữ sĩ thì thật sự cũng có rất nhiều sáng tác như “Bánh trôi nước” và bộ trong ba bài thơ “Tự tình” đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Dường như bài thơ đầu tiên trong chùm bài thơ “Tự tình” cũng như đã có được cho mình một dấu ấn riêng trong lòng độc giả. Mở đầu với những câu thơ như:


    "Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom…

    Tài tử văn nhân ai đó tá?

    Thân này đâu đã chịu già tom!"


    Dễ dàng có thể nhận thấy được cũng chính với hai câu đề gợi ra một không gian bao la, đồng thời đây cũng như đã mở ra được một không gian như cũng thật là mờ mịt. Dễ nhận thấy được rằng, cũng chính từ bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp mọi chòm xóm, cho đến thôn làng. Ta dường như cũng có thể thấy được chính những người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Thế rồi ta như cũng đã thấy được có những tiếng gà gáy "văng vẳng" trên bom thuyền từ xa đưa tới. Thế rồi ta như thấy được trong những đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy lại như cũng thật "văng vẳng" như thế. Hồ Xuân Hương thật tài tình khi cũng đã sử dụng thành công những nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy). Ta dường như cũng sẽ để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê dường như cũng đã góp phần làm nổi bật tâm trạng "oán hận" chính cho thân phận của người phụ nữ cứ trằn trọc và như thao thức suốt những canh trường. Người phụ nữ này dường như cũng đã ngồi dậy, đồng thời cũng như lại lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh. Ta dường như cũng đã thấy được rằng, thế rồi "trông ra" màn đêm mịt mùng. Có thể nhận thấy được chính màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận biết bao nhiêu:


    "Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

    Oán hận trông xa khắp mọi chèm".


    Đặc biệt, ta như thấy được chính trong hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh "mõ thảm" và đó cũng có cả "chuông sầu" đối nhau. Người đọc dường như cũng sẽ thấy được những sự hô ứng nhau, thế rồi ta dường như cũng đã thấy được những nỗi cực tả nỗi đau khổ, và như cũng thật là sầu tủi của riêng mình đang sống trong cảnh ngộ quá lứa lỡ thì. Thực sự người con gái này như cũng đã gặp những trắc trở trong tình duyên. Ta như thấy được đó cũng như đã chất chứa biết bao nhiêu những vần thơ đầy ám ảnh. Nữ sĩ như thật tài tình khi luôn luôn phủ định để khẳng định đó chính là những tiếng "cốc" của "mõ thảm", tiếng "om" của "chuông sầu". Nhân vật trữ tình như cũng đã thao thức biết bao đêm trường và luôn luôn buồn tủi cho số phận của mình như cũng thật là cô đơn biết bao nhiêu. Thế rồi trong sự cô đơn đó như được làm nổi bật lên đó chính là những tiếng “mõ thảm” kia chẳng ai khua cả mà cũng cốc. Thực sự tất cả những điều này dường như cũng đã nói lên những hồi chuông như cũng thật là xót xa biết bao nhiêu. Đặc biệt nó như cắt cứa, như cũng xoáy sâu thêm vào lòng người như chính nỗi buồn tê tái đến ngao ngán.


    "Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

    Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?"


    Ai đã yêu mến thơ Hồ Xuân Hương thì cũng đã được đọc những những vần thơ tươi xinh, phơi phới biết bao nhiêu khi thời con gái đó chính là "Thân em vừa trắng lại vừa tròn" (Bánh trôi nước). Thế rồi có những câu thơ đầy hình ảnh đẹp, căng tràn nhựa sống như "Hai hàng chân ngọc duỗi song song" (Đánh đu),… và chính những điều này ta dường như cũng đã mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ dường như cũng đã được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.


    Thực sự ta như thấy được chính những lời than tự tình trong cô đơn được khơi sâu trong phần luận, hay ở phần để mà "rầu rĩ" thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu biết bao nhiêu.


    Những câu "Trước nghe" đối với "sau giận", "tiếng" cũng đã thật là khéo léo hô ứng với "duyên". Thế rồi không chỉ dừng lại ở đó ta như thấy được chính sự "rầu rĩ" là tâm trạng đối với "mõm mòm" là trạng thái. Và vẫn còn đó ta dường như cũng đã nghe thấy được những câu như "Trước nghe nhưng tiếng..." dường như cũng đã là những tiếng gì? - Tiếng của miệng thế gian? Hay cũng có thể tiếng gà văng vẳng gáy, thế rồi ta như thấy được lại có những tiếng "chuông sầu", tiếng "mõ thảm" đang "cốc". Tất cả dường như cũng đang "om" trong lòng mình? Thế rồi giờ đây ta như thấy được chính giữa canh khuya thao thức, càng nghe càng thêm "rầu rĩ", buồn tủi. Đặc biệt hơn ta như thấy được những lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng "giận", và đồng thời ta như thấy được rằng khi chúng ta dường như lại càng cảm thấy được tâm trạng trữ tình cứ càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Trong câu thơ như chất chứa những giọt lệ và ta dường như cũng thấy được ở đó luôn luôn là một trái tim luôn luôn khao khát yêu.


    Độc giả có thể thấy được rằng, chính với những kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Điều này dường như cũng chính là một sự thách đố với số phận, với duyên số. Thế rồi ta như thấy được nữ sĩ dường như vẫn cứ "bướng bỉnh" trước bi kịch cô đơn của mình khi "duyên để mõm mòm" rồi bật ra những câu thơ như thật tếu táo và cũng đầy thách thức:


    "Tài tử văn nhân ai đó tá?

    Thân này đâu đã chịu già tom!"


    Với những vần thơ như đầy sự nghi vấn đồng thời nó dường như cũng đầy sự cảm thán biết bao nhiêu nghịch lý trong này. Thực sự thì nữ thi sĩ dường như cũng vẫn còn như đang tin vào tài năng của chính bản thân mình và tin vào việc bà cũng có thể làm xoay chuyển được duyên phận.


    Quả thực ta như thấy được chính bài thơ "Tự tình" khi đã được gieo vần "om", năm vần thơ của nữ sĩ người đọc cũng có thể thấy được rằng, chính những vần thơ nào mà nữ sĩ viết ra dường như đều mang được những sự đầy hóc hiểm bằng chính những bút pháp thật điêu luyện xong cũng chất chứa biết bao những nỗi niềm. “Tự tình” chính là nỗi khao khát làm sao để có thể nói lên được những tiếng than thân trách phận về những bi kịch của sự cô đơn nên đã nhận được sự đồng điệu của tất cả mọi người đặc biệt là đối với người phụ nữ cùng hoàn cảnh. “Tự tình” như một bài thơ thủ thỉ tâm tình về chính thân phận hẩm hiu của những người phụ nữ với nhau.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy