Top 7 Bài văn phân tích bài thơ Tự tình (bài III) của Hồ Xuân Hương hay nhất

Thai Ha 6960 0 Báo lỗi

Hồ Xuân Hương là nữ sĩ nổi tiếng, một hiện tượng văn học cá tính bậc nhất của văn học Việt Nam trung đại. Tự tình III là bài thơ Hồ Xuân Hương viết về thân ... xem thêm...

  1. Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của xã hội trung đại xưa. Người đời tôn vinh bà là “Bà Chúa thơ Nôm”. Trong những vần thơ của bà, tất cả thể hiện tiếng nói và sự đồng cảm với thân phận người phụ nữ.


    Trong đó, tác phẩm “Tự tình” của Hồ Xuân Hương được coi là bài thơ bộc lộ những nổi tủi hờn, cay đắng của người phụ nữ. Đồng thời, bài thơ cũng nói lên nỗi niềm của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đặc biệt Tự tình 3 là bài thơ nổi tiếng nói lên nỗi lòng “khắc khoải” của người phụ nữ.


    Chiếc bách buồn về phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.


    Nếu ở bài Tự tình I mở đầu bằng âm thanh văng vẳng tiếng gà gáy, thì bài tự tình III lại mượn hình thượng một chiếc bách đầy tâm trạng. Chiếc bách chính là biểu tượng của tâm trạng buồn về thân phận nổi lênh đênh. Chiếc bánh chính là người con gái giữa dòng đời, lênh đênh xô đẩy giữa cuộc đời buồn thay của chính mình “giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”.


    Theo dòng suy tưởng, ý thơ giữa dòng sông lênh đênh là hình ảnh chiếc bách nổi chìm không biết trôi về đâu, mà đó chính là hình tượng của dòng đời rộng lớn, hình ảnh người phụ nữ góa trẻ cũng không biết nương tựa vào đâu.


    Hai câu thơ tiếp theo cũng diễn tả nỗi truân chuyên của người phụ nữ góa trẻ trong thời phong kiến:


    Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng,

    Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.


    Tình và nghĩa vẫn dạt dào. Tuy nhiên, sóng gió cứ ập đến và đe dọa đánh vào mạn thuyền. Hai câu thơ trên mang nỗi buồn, sự chán chường về thân phận người phụ nữ. Lòng người muốn bình yên, nhưng gió không khi nào lặng. Đời người đàn bà trong xã hội xưa ít khi được hạnh phúc. Hạnh phúc dường như đã từng nằm trong tầm tay của họ, nhưng nó cũng tan vỡ. Thế là bỗng dưng đứt gánh giữa đường.


    Bốn câu là tâm trạng đau buồn của người đàn bà góa bụa còn xuân sắc, hai câu tiếp theo thể hiện sự buông xuôi cho số phận của người phụ nữ:


    Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến.

    Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.


    Trong ý thơ, người phụ nữ không quan tâm đến việc ai đó cầm lái đưa con tàu vào bến. Dù có để cánh buồm lướt qua thác ghềnh, họ cũng không quan tâm. Động từ “mặc” có thể chỉ ra sự buông xuôi thực sự ở đây. Cuộc sống của người phụ trẻ quá bụa giờ đây giống như con tàu lênh đênh trên biển khơi, ai muốn chèo lái chèo cũng không còn là vấn đề.


    Cả câu thơ nói lên sự bất lực của người phụ nữ trong xã hội cổ đại. Ngay cả khi cầu mong mình may mắn, họ cũng không thể thay đổi hoàn cảnh hay số phận của mình. Họ không thể thay đổi sự thật trần trụi của xã hội rằng dòng nước biển khơi lênh đênh quyết định thân phận của người phụ nữ mà không cưỡng lại được.


    Hai câu thơ cuối khép lại với những chán chường:


    Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,

    Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.


    Nhiều động từ thể hiện sự chấp nhận, chẳng hạn như “cam lòng”, “ôm nỗi”. Tác giả tự hỏi liệu có ai sẽ đến với mình? Và nếu có ai đó đến họ cũng sẽ chấp nhận mà không thể cưỡng lại được… Người phụ nữ trong xã hội xưa còn nhỏ bé, bị áp bức, hà khắc thì thân phận của một người góa phụ trẻ còn đáng buồn hơn. Các góa phụ trẻ không còn lựa chọn nào khác, ai muốn đẩy thuyền thì đẩy. Tức là ôm nỗi đau vào lòng.


    Hồ Xuân Hương thấu hiểu nỗi đau, nỗi oan, sự bất công của người phụ nữ nên đã dùng thơ để nói lên nỗi lòng của mình. Bà là đại diện cho những người phụ nữ mạnh mẽ, kêu gọi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và lên án sự bất công, khắc nghiệt của xã hội. Tự tình 3 khắc hoạ hiện thực xã hội phong kiến. Bất công, hà khắc với phụ nữ. Qua đây chúng ta hiểu và thông cảm hơn với những người phụ nữ của xã hội cũ.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ nổi tiếng, một hiện tượng văn học cá tính bậc nhất của văn học Việt Nam trung đại. Nhận xét về sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương, thi sĩ Dimitrova đã khẳng định “Hồ Xuân Hương là một trong những hiện tượng văn học độc đáo nhất của Việt Nam”.


    Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Hồ Xuân Hương tập trung bút lực đến một đối tượng đặc biệt là những người phụ nữ – những người chịu nhiều bất công, đau khổ trong xã hội xưa bằng sự đồng cảm sâu sắc cùng sự trân trọng với những giá trị tốt đẹp, với khát khao hạnh phúc chân chính.


    Tự tình III là bài thơ Hồ Xuân Hương viết về thân phận nhỏ bé cùng thân phận dang dở của chính mình, nhưng qua những tâm sự ấy người đọc lại thấy được những thân phận chung của rất nhiều phụ nữ trong xã hội đương thời.


    Trong không gian vắng lặng, tịch mịch của đêm khuya, những con sóng lòng như cồn cào, cuộn xoáy trong lòng nữ sĩ những trăn trở, thao thức về thân phận lỡ làng, tình duyên dang dở. Âm thanh tiếng trống canh dồn vang lên như một dấu hiệu thông báo thời gian trôi qua. Âm thanh tiếng trống trong đêm không làm lòng người thôi khắc khoải mà dường như càng làm đậm thêm nỗi buồn, sự lạc lõng giữa cuộc đời.


    “Hồng nhan” là gương mặt đẹp, thường được dùng để chỉ những người con gái đẹp. Tuy nhiên hồng nhan được nhắc đến trong câu thơ lại được đặt trong tương quan với nước non, đặc biệt là động từ trơ được đảo lên đầu câu lại gợi ấn tượng về sự nhỏ bé, lạc lõng của thân phận người phụ nữ trước cuộc đời rộng lớn.


    Đối diện với thân phận hẩm hiu, tình duyên dang dở nữ sĩ đã muốn mượn rượu giải sầu, muốn say để quên đi tất cả nhưng dường như càng uống càng tỉnh. “Say lại tỉnh” gợi ra trạng thái say – tỉnh bất phân, hơi rượu không làm cho nữ sĩ quên đi mà càng khắc sâu nỗi đau về thân phận. Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn là vầng trăng sắp tàn khi ngày đến, trạng thái khuyết chưa tròn cũng như tình duyên dang dở, lỡ làng của duyên phận.


    Có thể nói, Tự tình 3 là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho tâm hồn, tài năng và phong cách của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bài thơ thể hiện được sự ý thức sâu sắc của người phụ nữ trước hoàn cảnh éo le, bất công của số phận, tuy nặng trĩu nỗi buồn nhưng không hề bi lụy, ấn tượng đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc lại là sự mạnh mẽ của tâm hồn người phụ nữ khi khát khao vượt thoát ra khỏi hoàn cảnh, hướng đến một cuộc sống tươi sáng hơn.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thể hiện rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong văn học Việt Nam – Hồ Xuân Hương.

    Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong lại càng không thấy.


    Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà.


    Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà chồng không đến bằng một chữ trơ – trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ với nước non, với đời, với tình yêu.

    Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa tròn mà đã xế, thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng có thể có hàm ý chỉ tuổi người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy.


    Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt vọng, buông xuôi, thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ ra hình ảnh một sự cảm khái. Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xế xiên ngang mặt đất soi chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng: mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến.


    Hoá ra thân phận mình cô đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia! Đây không nhất thiết phải là cảnh thực, mà có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn trũng bóng xế ở câu trên. Nhưng các sự vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ khác thường, do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội.


    Những dồn nén, bức bối, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và cam chịu. Câu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và sự chán ngán kéo dài. Cuộc đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút.


    Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã dùng từ mảnh tình để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ – Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.


    Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.


    Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san sẻ, … và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn… để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số phận.


    Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về sự cô đơn, trơ trọi đến vô duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung phá, đầy sức sống thể hiện những cảm xúc trẻ trung.


    Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.


    Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.


    Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa.


    Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch không thể giải toả. Vì thế giọng điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở của những điều kiện lịch sử – xã hội mới mà thôi.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  4. Trong xã hội phong kiến với những lễ giáo khắt khe người phụ nữ luôn phải chịu nhiều cay đắng, thiệt thòi. Họ bị ràng buộc bởi “Tam tòng tứ đức”, bởi “Công dung ngôn hạnh” mà mất đi quyền làm chủ, quyền hạnh phúc.


    Đó là nguồn cảm hứng cho các nhà văn nhà thơ luôn có tấm lòng nhân đạo đồng cảm, xót thương cho con người. Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ có nhiều tác phẩm viết về đề tài người phụ nữ cũng là để than ngẫm, thương xót cho chính thân phận của mình.


    Chùm thơ Tự tình của bà gồm ba bài là sự phản ánh đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ. Trong đó Tự tình bài III được coi là bài thơ hay nhất khắc họa hình ảnh người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường tình duyên không trọn vẹn, quá lứa lỡ thì nhưng luôn khao khát có một hạnh phúc bình dị, đời thường.


    Người phụ nữ xuất hiện trong hoàn cảnh không gian, thời gian là đêm khuya thanh vắng con người trở nên cô đơn, bé nhỏ, lạc lõng cùng với biết bao những đắng cay, tủi hờn cho thân phận bẽ bàng của mình.

    Người phụ nữ ấy có nhan sắc “hồng nhan” vẻ đẹp bên ngoài cũng là để nói đến cái phẩm hạnh, đức hạnh “tấm lòng son” ở bên trong nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, dở dang. Từ “Trơ” đứng ở đầu câu càng nhấn mạnh thêm nỗi đau.


    Nếu xét về phương diện tính cách của Hồ Xuân Hương có cá tính mạnh mẽ, táo bạo thì đó lại là sự thách thức, trơ lì ra của một con người chịu quá nhiều tủi hờn, đau buồn mà trơ ra với “nước non”. “Cái hồng nhan”gợi sự rẻ rúng bị coi khinh. Người phụ nữ đầy đủ vẻ đẹp hình thể và tâm hồn nhưng phải sống một cuộc đời khổ đau, hẩm hiu về duyên phận.


    Hồ Xuân Hương ý thức được số phận của người phụ nữ sống trong chế độ phong kiến thối nát phải chịu nhiều ngang trái nên bà muốn mượn chén rượu, mượn chút hương nồng để quên đi nỗi sầu. Nhưng càng uống càng tỉnh càng ý thức rõ ràng hơn về thực tại khổ đau, bà luôn luẩn quẩn trong vòng xoáy nghịch cảnh của cuộc đời.


    Bà chúa thơ Nôm không phải là người phụ nữ cam chịu, chấp nhận số phận mà bà luôn mang trong mình cá tính táo bạo kháng cự quyết liệt. Bà đã từng lên tiếng khinh bỉ, coi thường những bậc nam nhi vô dụng trong xã hội xưa.


    Một con người tự tin dám khẳng định bản thân mình thì không bao giờ chịu chấp nhận nghịch cảnh mà thay vào đó là một ý thức phản kháng mạnh mẽ, muốn vượt lên số phận, mong mỏi một hạnh phúc đời thường. Bà nhìn thấy trong những sự vật nhỏ bé tưởng chừng như yếu ớt nhưng lại mang trong mình một sức sống dồi dào.


    Hồ Xuân Hương chán chường, ngán ngẩm khi ngày qua ngày hết năm này qua năm khác “xuân đi xuân lại lại” nhưng vẫn cô đơn lẻ bóng một mình, bà cũng xót xa cho tuổi xuân của mình qua đi, tuổi đời càng thêm nhưng tình yêu chưa bao giờ được trọn vẹn, được thương yêu với đúng nghĩa của một người làm vợ.


    Mảnh tình ấy đã mỏng manh, ít ỏi lại còn phải “chia năm sẻ bảy” để rồi chỉ còn “tí con con”. Mặc dù thi sĩ là người có tài năng, giỏi giang, xinh đẹp đức hạnh nhưng phải chăng vì lẽ “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” mà bà cũng không thể vượt qua được nghịch cảnh của số phận.


    Với tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc cùng với các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc bài thơ Tự tình III của Hồ Xuân Hương đã khắc họa được hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn phải chịu nhiều bất hạnh, đắng cay nhưng chưa bao giờ thôi khao khát hạnh phúc gia đình, hôn nhân trọn vẹn, có thể làm chủ được số phận của mình. Bên cạnh đó càng điểm tô thêm vẻ đẹp và những phẩm chất, đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam cần được gìn giữ và tiếp nối.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  5. Hồ Xuân Hương là một trong nữ thi văn nổi tiếng trong xã hội cũ. Bà được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm”. Trong các bài thơ của bà đều nói lên tiếng nói cảm thương người phụ nữ và khẳng định đề cao và ý thức đầy bản lĩnh.


    Theo đó, tác phẩm “Tự Tình” của bà được coi là bài thơ bộ lộ những cảnh éo le, buồn tủi, cay đắng của người phụ nữ. Đồng thời cũng nói lên khát vọng mong cầu hạnh phúc của người phụ nữ xã hội xưa. Đặc biệt tác phẩm tự tình 3 là bài thơ nổi tiếng nói lên “tiếng lòng” người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ đầy chua xót, tủi hổ, đau đớn


    Chiếc bách buồn về phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.


    Nếu bài tự tình thứ nhất mở đầu bằng âm tanh tiếng gà gáy văng vẳng, thì bài tự tình thứ 3 lại là một chiếc bách đầy tâm trạng. Chiếc bách chính là hình ảnh của chiếc thuyền với tâm trạng buồn về phận nổi lênh đênh.


    Chiếc thuyền chính là người con gái giữa dòng đời. Một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh giữa cuộc đời buồn thay cho cuộc đời của mình “giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”. Nếu giữa dòng sông mênh mông ấy là hình ảnh chiếc bách nhỏ lênh đênh không biết trôi về đâu, thì giữa dòng đời rộng lớn, hình ảnh người con gái góa trẻ cũng không biết sẽ trôi về đâu.


    Nỗi bi ai, đau khổ không chỉ ở trong 2 câu thơ đầu mà trong câu thơ sau, cũng diễn tả nỗi truân chuyên của người phụ nữ góa trẻ.


    Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng,

    Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.


    Tình và nghĩa vẫn đương còn chan hòa dào dạt. Vậy mà sóng gió vẫn cứ ập tới, đe dọa liên tiếp vỗ vào mạn thuyền. Hai câu thơ này đều mang tâm trạng buồn rầu, ngao ngán cho thân phận người phụ nữ. Cây muốn yên mà gió chẳng lặng. Cuộc sống người phụ nữ xã hội xưa mấy khi được hạnh phúc. Hạnh phúc tưởng chừng trong tầm tay nhưng cũng lại vỡ tan. Vậy là đang “như chim liền cành” bống nhiên đứt gánh giữa đường.


    Nếu bốn câu đề là tâm trạng buồn tủi của người phụ nữ góa trẻ thì hai câu sau thể hiện sự buông xuôi của người phụ nữ:


    Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến.

    Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.


    Trong ý thơ, tác giả mặc cho ai lăm le cầm lái để đưa thuyền vào đậu bến. Dù cho dog lèo để cho cánh buồm vượt qua ghềnh thác mà trôi xuôi tác giả cũng không quan tâm. Động từ “Mặc” ở đây thể hiện sự buông xuôi thực sự. Cuộc đời người góa phụ trẻ giờ đây giống như chiếc thuyền trôi lênh đênh ngoài biển khơi, ai muốn lái muốn chèo đều không còn là nỗi bận tâm nữa rồi.


    Chỉ ai câu thơ nói lên sự bất lực của người phụ nữ trong xã hội xưa. Dù có khao khát hạnh phúc thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh, vận mệnh. Không thể thay đổi được sự thật phũ phàng của xã hội là biển khơi, đẩy đưa thuyền đi theo ghềnh thác cũng đành phải theo mà không thể chống cự.

    Tiếp theo tâm trạng này là hai câu cuối.

    Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,

    Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.


    Rất nhiều động từ thể hiện sự chấp nhận, buồng xuôi như “cam lòng” “ôm nỗi”. Tác giả tự hỏi, còn ai nữa sẽ đến với mình đây? Mà nếu có ai đến thì cũng cam lòng mà không thể chống cự được. Mặc dù người phụ nữ hiểu rằng, bước sang một chiếc thuyền khác thì cuộc đời cũng vẫn “tấp tênh”, cũng không có gì khởi sắc. Nhưng dẫu vậy cũng cam lòng vì tình thế không thể khác được.


    Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa đã nhỏ bé, bị áp bức, bị xã hội hà khắc thì thân phận người góa phụ trẻ còn thê lương hơn. Người góa phụ trẻ không có lựa chọn, ai muốn đẩy thuyền trôi đâu thì đẩy. Chỉ biết cam lòng, ôm nỗi đau vào lòng.


    Thấu hiểu nỗi đau đớn, oan ức, bất công của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã lấy thi ca để nói lên tiếng lòng. Bà chính là đại diện cho những người phụ nữ mạnh mẽ, đòi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và lên án sự bất công, hà khắc của xã hội.


    Người phụ nữ xưa nhỏ bé, chịu bao áp bức vậy mà vẫn phải “tam tòng tứ đức”, giỏi việc nhà, đảm đang, khéo léo. Trong khi đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình. Đàn bà trẻ góa một lần coi như cuộc đời là cánh bèo trôi dạt, không có lựa chọn, không có quyền lên tiếng, dù vào tay ai cũng cam lòng.

    Không chỉ tự tình 3 mới nói lên nỗi bất công hà khắc của xã hội, bài thơ tự tình 1 và 2 của Hồ Xuân Hương cũng là tiếng lòng người phụ nữ. Bản thân Hồ Xuân Hương cũng lận đận đường tình duyên, cuộc đời phong bã bão táp.


    Tác giả cũng là người con gái đẹp, có mưu cầu hạnh phúc nhưng bị xã hội phong kiến đàn áp nên hạnh phúc khó kiếm tìm. Nhiều lần đứt đoạn, nhiều lần suy sụp, chới với, nhưng Hồ Xuân Hương luôn có cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, thấu hiểu và dám lên tiếng.


    Kết thúc tự tình 3 vẫn chỉ là tâm trạng buông xuôi, cam lòng của người góa phụ trẻ. Nhưng kết thúc đó cũng là tiếng lòng khao khát muốn được hạnh phúc, muốn vùng vẫy. Bài thơ lột tả chân thực xã hội phong kiến bất công, hà khắc với người phụ nữ.


    Thân phận người góa phụ rẻ rúng, bèo dạt lênh đênh. Qua đây, chúng ta càng thấu hiểu hơn và cảm thông hơn cho những người phụ nữ xã hội cũ. Và càng cảm phục ý chí, tài năng, tâm hồn của “Bà chúa thơ Nôm – Hồ Xuân Hương”.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng làm cho cuộc sống người dân vô cùng lầm than, cơ cực. Đặc biệt là thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ. Không ít nhà thơ, nhà văn đã phản ánh rõ điều đó, ta có thể cảm nhận rõ qua một số tác phẩm văn học như “ Truyện Kiều “ (Nguyễn Du), “ Chinh phụ ngâm” (Đặng Trần Côn ),… Đó là những lời cảm thông của người đàn ông nói về người phụ nữ, vậy người phụ nữ nói về thân phận của chính họ như thế nào, ta cùng tìm hiểu bài “Tự tình III” của Hồ Xuân Hương.


    Hồ Xuân Hương là thiên tài kì nữ nhưng cuộc đời gặp nhiều bất hạnh. Thơ Hồ Xuân hương là thơ của phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm chất dân gian từ đề tài,cảm hứng ngôn từ và hình tượng. Bà được mệnh danh là bà chúa thơ nôm. Tác phẩm tự tình 3 là bài thơ nổi tiếng nói lên “tiếng lòng” người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ đầy chua xót, tủi hổ, đau đớn.


    Hai câu đề mở đầu bài thơ cho ta cảm nhận rõ được là một chiếc bách đầy tâm trạng. Chiếc bách chính là hình ảnh của chiếc thuyền với tâm trạng buồn về phận nổi lênh đênh


    "Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh."


    Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương cho ta thấy rõ về hình ảnh một chiếc bách - chiếc thuyền cô đơn bấp bênh giữa dòng nước. Tác giả đã vô cùng tinh tế khi sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ hình ảnh “chiếc bách” với thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ. Nếu giữa dòng sông mênh mông ấy là hình ảnh chiếc bách nhỏ lênh đênh không biết trôi về đâu, thì giữa dòng đời rộng lớn, hình ảnh người con gái góa trẻ cũng không biết sẽ trôi về đâu. Không chỉ thế, tâm trạng của người phụ nữ còn được Hồ Xuân Hương miêu tả qua một vài từ ngữ như: “ngao ngán”.


    Nỗi khổ cực, bất hạnh của người phụ nữ càng thể hiện rõ hơn qua hai câu thực. Thể hiện nỗi truân chuyên của người phụ nữ góa trẻ


    "Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,

    Nửa mạn phong ba luống bập bềnh."


    Đọc câu thơ lên ta có thể thấy tình và nghĩa vẫn còn vô cùng dạt dào, sâu đậm. Vậy mà sóng gió vẫn cứ ập tới, đe dọa liên tiếp vỗ vào mạn thuyền. Hai câu thơ này đều mang tâm trạng buồn rầu, ngao ngán cho thân phận người phụ nữ. Cây muốn yên mà gió chẳng lặng. Cuộc sống người phụ nữ xã hội xưa mấy khi được hạnh phúc. Hạnh phúc tưởng chừng trong tầm tay nhưng cũng lại vỡ tan. Điều đó càng làm cho người đọc thấy được khao khát, khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ xã hội xưa.


    Nếu bốn câu thơ trên thể hiện tâm trạng buồn tủi của người phụ nữ góa trẻ thì hai câu luận cho ta thấy tâm trạng buông xuôi của người phụ nữ


    "Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,

    Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh."


    Trong câu thơ trên, ta thấy cho dù là ai cũng đều có thể cầm lái để đưa thuyền vào đậu bến. Dù cho dong lèo có cầm lái trôi xuôi theo thác ghềnh cũng không còn quan tâm nữa. Hồ Xuân Hương sử dụng động từ “mặc” càng làm tăng thêm sự ngao ngán, buông xuôi của người phụ nữ góa trẻ. Cuộc đời của người phụ nữ trong bài thơ hiện giờ giống như một chiếc thuyền lênh đênh ngoài biển khơi, cho dù có là ai cầm lái , đi đâu hay về đâu thì cũng không bận tâm nữa rồi. Chỉ với hai câu thơ ngắn, đã nói lên sự bất lực của người phụ nữ thời xưa. Dù có khao khát hạnh phúc thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh, vận mệnh. Không thể thay đổi được sự thật phũ phàng của xã hội là biển khơi, đẩy đưa thuyền đi theo ghềnh thác cũng đành phải theo mà không thể chống cự.


    Cuối cùng, hai câu kết của bài thơ vẫn chỉ là tâm trạng buông xuôi, cam lòng của người góa phụ trẻ. Nhưng đó cũng là tiếng lòng khao khát muốn được hạnh phúc, muốn vùng vẫy


    "Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,

    Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh."


    Chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả sử dụng rất nhiều động từ thể hiện sự chấp nhận, buông xuôi của người phụ nữ trẻ như “cam lòng”, “ôm nỗi”. Tác giả tự hỏi rằng ai sẽ đến với mình? Thế nhưng để đến với mình thì ai sẽ là người cam lòng để có thể bên mình. Mặc dù người phụ nữ hiểu rằng, bước sang một chiếc thuyền khác thì cuộc đời cũng vẫn “tấp tênh”, cũng không có gì khởi sắc. Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa đã nhỏ bé, bị áp bức, bị xã hội hà khắc thì thân phận người góa phụ trẻ còn thê lương hơn. Người góa phụ trẻ không có lựa chọn, ai muốn đẩy thuyền trôi đâu thì đẩy. Chỉ biết cam lòng, ôm nỗi đau vào lòng. Thấu hiểu nỗi đau đớn, oan ức, bất công của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã lấy thi ca để nói lên tiếng lòng. Bà chính là đại diện cho những người phụ nữ mạnh mẽ, đòi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và lên án sự bất công, hà khắc của xã hội.


    Một phần không thể thiếu để để khắc họa rõ nét hơn về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm đã sử dụng vô cùng tinh tế một số biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, các động từ thể hiện sự ngao ngán, kết hợp với thể thơ thất ngôn bát cú càng lột tả chân thực xã hội phong kiến bất công, hà khắc với người phụ nữ. Thân phận người góa phụ rẻ rúng, bèo dạt lênh đênh.


    Tóm lại, tác phẩm “Tự Tình III” của bà được coi là bài thơ bộc lộ những cảnh éo le, buồn tủi, cay đắng của người phụ nữ. Đồng thời cũng nói lên khát vọng mong cầu hạnh phúc của người phụ nữ xã hội xưa “tiếng lòng” người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ đầy chua xót, tủi hổ, đau đớn. Qua đây, chúng ta càng thấu hiểu hơn và cảm thông hơn cho những người phụ nữ xã hội cũ. Và càng cảm phục ý chí, tài năng, tâm hồn của “Bà chúa thơ Nôm – Hồ Xuân Hương.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ tài năng và nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, được tôn danh là "Bà chúa thơ Nôm". Các tác phẩm của bà là tiếng nói quyết liệt đấu tranh cho hạnh phúc, khát vọng, vận mệnh, khẳng định, đề cao vẻ đẹp và là ý thức đầy bản lĩnh của người phụ nữ trong Xuân Hương xưa nói chung và bản thân nữ sĩ nói riêng và "Tự tình III" đã thể hiện thành công tâm sự tình duyên của bà.Mở đầu bài thơ là hình ảnh "chiếc bách" với nỗi buồn sâu thăm thẳm:


    "Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh"


    "Chiếc bách" được lấy trong từ "bách châu" - nghĩa là mảnh thuyền, là hình ảnh ẩn dụ chỉ người góa phụ và được nhân hóa qua từ "buồn" để diễn tả cái nỗi u sầu, buồn bã, tủi hổ vì duyên phận đầy bấp bênh của thi nhân. Nếu "Tự tình I" mở đầu bằng tiếng gà gáy éo óc trong đêm khuya tĩnh mịch, hoang vắng, quạnh hiu, "Tự tình II" có tiếng trống canh dồn dập khiến lòng người càng thêm cô đơn, gấp gáp, hối hả, thì sang đến "Tự tình III" là hình ảnh chiếc thuyền nhỏ bé, đơn độc giống như hình ảnh người phụ nữ đang chơi vơi giữa cuộc đời rộng lớn, mênh mông như biển cả, điều này gợi cho ta nhớ đến câu thơ "Bảy nổi ba chìm với nước non" trong bài "Bánh trôi nước". Từ láy "ngao ngán" đã cho thấy cái tâm trạng đầy chán ngán, buồn rầu vì biết rằng dù bản thân có cố gắng vùng vẫy như thế đi chăng nữa thì cũng chẳng có ích gì, chỉ có thể mặc cho dòng nước đưa đẩy, không biết mình sẽ trôi đi đâu về đâu.Tiếp đến hai câu thực là nỗi truân chuyên trên đường đời gập ghềnh, thênh thang của thi sĩ:


    "Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng

    Nửa mạn phong ba luống bập bềnh"


    Khi còn ở độ xuân thì, Xuân Hương là một phụ nữ rất xinh đẹp với trí tuệ thông minh, sắc sảo, vẻ đẹp ấy được khắc họa gián tiếp qua một số câu thơ: "Thân em vừa trắng lại vừa tròn", "Hai hàng chân ngọc duỗi song song", "Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng". Thế nhưng người xưa nói "Hồng nhan bạc mệnh" quả không sai, cuộc đời bà vốn đã bấp bênh mà đường tình duyên cũng không được trọn vẹn, làm kiếp lẽ mọn đến hai lần và về sau sớm trở thành góa bụa. Hai câu thực trên được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa tả thực và nghĩa ẩn dụ. Với nghĩa tả thực, "lưng khoang" (khoảng giữa của khoang thuyền) vốn vẫn rất rộng mở nhưng những cơn sóng khủng khiếp, dữ dội bên ngoài cứ liên tiếp xô tới, đập vào mạn thuyền. Còn theo nghĩa ẩn dụ, trong lòng Xuân Hương, tình cảm và nghĩa phu thê vẫn đương còn mặn nồng, đậm đà dào dạt "lai láng" nhưng số kiếp không hề muốn buông tha cho bà. Những trận phong ba, sóng gió của cuộc đời cứ tiếp diễn đổ ập đến, bốn bề bủa vây, đe dọa, lấy đi hạnh phúc, bình yên cuối cùng của thi sĩ (người chồng thứ hai của bà và cuộc sống êm đềm bên ông) khiến bà rơi vào tình cảnh bất an, đau khổ, trôi nổi vô định giữa dòng đời. "Nửa mạn" có nghĩa là hạnh phúc chỉ vừa mới đến thôi mà đã lại đi mất, nó giống như bọt biển vậy, tưởng chừng nằm trong tầm tay nhưng cũng lại vỡ tan. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, người phụ nữ cứ chờ đợi mãi, niềm vui đến giữa chừng rồi lại biến mất, sau cùng chỉ để lại cho họ cái cảm giác hụt hẫng, thất vọng, bơ vơ mà thôi.


    Vì quá mệt mỏi, khổ sở khi phải chịu nhiều đau đớn, bất công nên nhà thơ đã lựa chọn buông tay tất cả mọi thứ:

    "Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến

    Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh"


    Tác giả dùng nghệ thuật đối chỉnh ("cầm lái"... "Dong lèo", "mặc ai"... "Thây kẻ", "lăm đỗ bến"... "Rắp xuôi ghềnh") kết hợp với động từ "mặc", "thây" để thể hiện thái độ buông xuôi, bất lực, bế tắc của nhân vật trữ tình. Mảnh thuyền lúc đầu mặc cho dòng nước cuốn trôi vậy mà giờ đây lại để cho người khác cứ thế điều khiển. Nó là thứ vô tri vô giác, ai rắp tâm dong lèo để đưa thuyền lên thác, xuống ghềnh, lênh đênh nơi sóng nước, hay lăm le cầm lái để ghé đậu bến bờ nào thì người phụ nữ cũng không quan tâm, đoái hoài tới, có phản kháng cũng chẳng thể thay đổi được gì vì số phận mình hoàn toàn nằm trong tay của kẻ khác.Để khép lại bài thơ, tác giả viết:


    "Ấy ai thăm ván cam lòng vậy

    Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh"


    "Thăm ván" xuất phát từ thành ngữ "Thăm ván bán thuyền", chỉ người thay lòng đổi dạ một cách nhanh chóng, có mới nới cũ, giống như người vừa mới tìm được ván (gỗ đóng thuyền) tốt thì đã tính bán đi chiếc thuyền cũ đang dùng. Giữa bốn bề là nước non, Xuân Hương tự vấn bản thân rằng còn ai nữa sẽ đến với mình đây (thăm ván) ? Nếu việc ấy xảy ra thì cũng cam đành mà không thể chống cự. Dù người phụ nữ có sống tình nghĩa, thuỷ chung, "vẫn giữ tấm lòng son" thì điều đấy cũng gần như vô nghĩa. Vậy nên họ đã quyết định ôm đàn sang thuyền người khác, thế nhưng cuộc đời vẫn cứ "tấp tênh", chẳng có gì biến chuyển, khởi sắc, không một chút hi vọng, đổi thay. Các động từ như "cam lòng", "ngán" đã thể hiện sự chấp nhận, buông xuôi, chán nản, ngán ngẩm vì cái "phận hẩm duyên ôi" của nhà thơ.


    Tóm lại, tác phẩm "Tự tình III" đã đạt được những thành công nhất định cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Về nghệ thuật, nữ sĩ đã vận dụng tài tình thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cùng với chữ Nôm vừa mang đến sự mới lạ vừa gần gũi, thân thuộc với người Việt và ngôn ngữ sinh động, giàu sức gợi hình gợi cảm, nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, đối, từ láy, gieo vần "ênh".. Nội dung thì giàu giá trị nhân văn sâu sắc, nó đã tố cáo, lên án xã hội phong kiến nam quyền tàn bạo, xấu xa, đầy rẫy những bất công ngang trái và nó đồng thời cũng là tiếng lòng của người phụ nữ thể hiện thái độ chán chường, cam chịu chấp nhận và tâm trạng đau buồn, phẫn uất trước nghiệt ngã, sóng gió cuộc đời. Đằng sau những bi kịch ấy là khát vọng được sống tự do, được hạnh phúc, yêu thương của Hồ Xuân Hương nói riêng và phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy