Top 8 Bài văn Phân tích tội ác của thực dân Pháp qua bài Thuế máu (Ngữ văn 8) hay nhất
Hồ Chí Minh (1890- 1969) không chỉ có sự nghiệp cách mạng, Người còn để lại một số di sản văn học quý giá. Văn bản "Thuế máu" đã tố cáo bộ mặt giả dối, thủ ... xem thêm...đoạn của chính quyền thực dân Pháp trong việc biến người dân thuộc địa thành vật hy sinh cho lợi ích của chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa tàn khốc. Mời các bạn tham khảo một số bài văn Phân tích tội ác của thực dân Pháp qua bài Thuế máu mà Toplist đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
-
Qua văn bản "thuế máu", tác giả Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt tàn ác bất nhân lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân Pháp.
Chúng đã đẩy những người dân thuộc địa vào cảnh đang thương, lấy họ làm vật hi sinh, làm bia đỡ đạn cho quyền lợi của chúng trước chiến tranh. Họ bị thực dân pháp coi là "những tên da đen bẩn thỉu", "những tên an nam mít bẩn thỉu" , họ chỉ biết kéo xe và ăn đòn.
Số phận của họ cực kì đáng thương, cho thấy bộ mặt tàn ác bất nhân của thực dân Pháp. Thế nhưng khi chiến tranh nổ ra, bọn Thực dân Pháp bộc lộ bộ mặt lừa bịp bỉ ổi , chúng dùng những lời lẽ hoa mỹ, gọi là "con yêu, bạn hiền" phong cho họ cái danh hiệu "Chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do" không những thế, chúng còn bắt người dân thuộc địa phải đi lính.Mặc dù không muốn đi lính nhưng những người dân thuộc địa chỉ là những người thấp cổ bé họng không làm gì được bọn thực dân pháp nên phải đi lính. Chúng dùng lời lẽ lừa lọc dối trá "tấp nập đầu quân, không ngần ngại rời bỏ quê hương" thế nhưng trên thực tế họ bị xích, trói, nhốt lại, họ bị bọn thực dân Pháp bắt đi lính.
Họ bị giam, chúng dùng thủ đoạn bỉ ổi, đầu tiên chúng bắt người dân nghèo và khỏe mạnh, sau đó chúng quay sang xoay tiền của nhà giàu, chúng giao nộp số người trong một thời gian quy định và chúng gọi đó là chế độ lính tình nguyện. Than ôi!, số phận của người dân thuộc địa thật là trớ trêu. Họ phải đi lính "làm mồi co thủy lôi", "bỏ xác ở nơi hoang vu". "lấy máu mình tưới lên vòng nguyệt", "lấy xương mình chạm vào chiếc gậy của ngài thống chế, "số phận của họ không gì có thể thảm thương hơn".
Thế mà 70 vạn người đặt chân lên nước Pháp thì 8 vạn người không thể nhìn thấy mặt trời trên đất mình nữa. Chứng tỏ thuế máu là thứ thuế vô cùng tàn ác vì họ phải lấy máu mình, hy sinh cả tính mạng của mình để làm bia đỡ đạn cho thực dân Pháp. Thế mà sau chiến tranh lời lẽ hoa mỹ của bọn thực dân Pháp như im bặt. Chúng quay ngoắt lại, đối xử với họ rất tàn bạo họ lại bị coi là những tên An nam mít bẩn thỉu. Chúng cho họ ăn như cho lợn ăn, nhồi nhét họ cho họ ngủ như cho lợn ngủ và họ lại phải chịu số phận thảm thương. Sau chiến tranh bản chất tàn ác bất nhân , bộ mặt lừa bịp của thực dân Pháp được bộ lộ rõ nhất.
-
Nguyễn Ái Quốc là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta người từng bôn ba 5 châu bốn biển” Tìm đường đi cho dân tộc đi theo”. Một trong những phương diện đấu tranh của người là dùng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu. Năm 1925 người cho ra đời ” bản án chế độ thực dân Pháp”. Trong đó có chương I” Thuế máu” người đã vạch trần bộ mặt xảo trá của thực dân Pháp đồng thời phản ánh số phận thảm thương của người dân thuộc địa. Phần 2 chế độ lính tình nguyện đã minh chứng điều đó.
Người dân thuộc địa bị thực dân Pháp bóp nặng hàng trăm thứ thuế, sưu sai tạp dịch bị ép mua rượu thuốc phiện theo lệnh quan trên. Giờ đây còn phải thêm cái vạ mộ lính. Thực dân Pháp ra sức bắt lính phục vụ cho chiến trường CA trong chiến tranh thế giới lần thứ I năm 1914–1918.
Trong phần chế độ lính tình nguyện trước hết tác giả phơi bày bộ mặt xảo trá của thực dân Pháp. Giữa lời nói và hành động của chúng có sự đối lập tương phản. Tác giả đã sử dụng bút pháp trào phúng để phơi bày bộ mặt của giặc, đả kích bộ mặt trắng trợn. Chúng dùng những danh từ mĩ miều “Các bạn đã tấp nập đầu quân”, “các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quốc hội biết bao trìu mến”. Chúng gọi đó là “chế độ lính tình nguyện” nhưng tác giả đã vạch trần gọi đó là danh từ “mỉa mai đáng ghê tởm”. Nối nói giễu nhại: Tấp nập, không ngần ngại phơi bày sự bỉ ổi của thực dân Pháp.
Hành động của chúng hoàn toàn trái ngược. Chúng tiến hành các cuộc lùng ráp lớn trên toàn cõi đông dương tìm kiếm nguồn nhân lực lớn phục vụ chiến tranh, quan trên khoán quan dưới; Quan dưới mặc sức dở thủ đoạn “xoay xở kiểu D” – Năng động tháo vát một cách khủng khiếp. nào là chúng tóm người khỏe mạnh nghèo khổ nào là chúng tóm con nhà giàu để họ xì tiền ra, một mũi tên trúng hai đích. Chúng vừa bắt được người ra trận được tiếng mẫn cán với quan trên vừa làm giàu bòn rút tiền của của nhân dân. Cái vạ mộ lính đã được chúng lợi dụng một cách triệt để. Chúng thật đểu cáng!
Không chỉ phơi bày bộ mặt thật của chúng tác giả còn phản ánh số phận thảm thương của người dân thuộc địa. Họ đã phải đóng thuế bằng chính xương máu của mình. Họ tìm mọi cách để trốn thoát khỏi các trại lính. Không trốn thoát họ tự hủy hoại sức khỏe của mình thông thường nhất là bệnh “đau mắt toét chảy mủ” bằng cách sát vôi sống vào mủ bệnh lậu. Người xưa đã nói “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay” thế mà học phải hủy “tài sản” quý nhất của mình. Bởi như vậy còn giữ được tính mạng, còn gì cực nhục hơn thế!
Đi lính tình nguyện ư? Họ đã bị xích tay nhốt vào trường trung học, lính pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần. Tác giả đã sử dụng một loạt câu hỏi tu từ ở phần cuối đoạn trích kết hợp với các dẫn chứng cụ thể vừa phơi bày sự thật vừa đanh thép tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với người dân thuộc địa.
Như vậy đoạn trích tiêu biểu cho bút pháp trào phúng của tác giả từ ngôn từ đến hình ảnh, cây văn giọng chế giễu thủ pháp đối lập tương phản giữa lời nói và hành động giọng văn châm biếm đả kích lúc lại ngậm ngùi thương cảm đều toát lên tính chất trào phúng độc đáo đặc sắc trong thơ văn Nguyễn Ái Quốc. Đoạn văn tiêu biểu cho tính chiến đấu cao trong văn chương của người bước đầu vạch ra cho người dân các nước thuộc địa con đường đấu tranh giành lại quyền sống.
Tóm lại chế độ “lính tình nguyện” nói riêng và “thuế máu” nói chung đã phản ánh số phận thảm thương của người dân thuộc địa và phơi bày bộ mặt xảo trá của thực dân Pháp. Từ đó ta thấy được tấm lòng của tác giả thương cảm cho người dân, căm thù giặc. Đọc văn bản ta càng thấy được giá trị của hòa bình hôm nay, thấy được trách nhiệm của bạn trẻ trong việc học tập rèn luyện để trở thành người công dân có ích giúp nước giàu mạnh, không để kẻ thù xâm lượng nhòm ngó lãnh thổ, chủ quyền.
-
Với tư cách là một thiên phóng sự điều tra, Bản án chế độ thực dân Pháp là văn chương báo chí. Sức thuyết phục của nó là những con số, những nhân chứng, những thống kê, nghĩa là những sự thật không gì chối cãi được. Người viết nó ở vào vị thế khách quan không hề khoa trương cường điệu. Song, một mặt khác, tác phẩm rất gần với văn chương hình tượng, nghĩa là những sáng tạo nghệ thuật ở một loạt hình ảnh gợi cảm, ở giọng điệu trào phúng, giễu cợt, mỉa mai. Sự kết hợp về mặt thể loại này đã đưa đến một hiệu quả không ngờ: tố cáo chế độ thực dân, phơi bày cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa. Lòng căm giận đối với chế độ thực dân và yêu thương đối với nhân dân các nước thuộc địa là những mạch ngầm văn bản thể hiện một khát vọng mãnh liệt, sâu sắc của tinh thần chiến đấu, của ý chí chiến đấu giành độc lập tự do của cây bút tài hoa cũng là của một người chiến sĩ cách mạng.
Thuế máu là một cách đặt tên chương đầy ấn tượng, có sức biểu cảm, khơi gợi rất cao. Đây là một thứ thuế cực kỳ vô lý, một sự bóc lột tàn bạo, trắng trợn đến tận cùng sinh mạng của những người dân thuộc địa. Chiến tranh phi nghĩa đối với bọn đế quốc là một cách làm giàu nhanh nhất và bóc lột xương máu của những người dân thuộc địa mà chúng tự phong cái nghĩa vụ khai hoá, bảo hộ là con đường rẻ nhất. Đó là những cuộc chiến tranh mang lại lợi nhuận vô cùng lớn. Bóc lột sức lực mồ hôi đã là một tội ác. Bóc lột xương máu lại là một tội ác lớn hơn. Bản chất độc ác ấy, lần đầu trên báo chí được phanh phui, bộ mặt của bọn thực dân hiện nguyên hình là những loài dã thú trong thời đại văn minh. Tính chất phản nhân loại ấy được lôi ra ánh sáng, trước vành móng ngựa của lương tri. Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương đầu của tác phẩm vừa theo lôgic thời gian, trọn vẹn một quy trình công nghệ đưa thân xác người dân thuộc địa vào guồng máy chiến tranh (Chiến tranh và “người bản xứ” ; Chế độ lính tình nguyện ; Kết quả của sự hi sinh) vừa theo nguyên tắc của nghệ thuật. Hình thức đầu cuối tương ứng trong kết cấu (như hình ảnh chiếc lò gạch trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao) tạo nên sự va đập dữ dội trong tâm trí của người đọc, người nghe. Xương máu mà người dân thuộc địa phải trả cho các cuộc chiến tranh đế quốc thật là vô nghĩa. Sự lừa bịp của bọn thực dân không còn một thứ bình phong hay mĩ từ nào che giấu được.
Chúng đã đẩy những người dân thuộc địa vào cảnh đang thương, lấy họ làm vật hi sinh, làm bia đỡ đạn cho quyền lợi của chúng trước chiến tranh. Họ bị thực dân Pháp coi là “những tên da đen bẩn thỉu”, “những tên An-Nam-mít bẩn thỉu”, họ chỉ biết kéo xe và ăn đòn. Số phận của họ cực kì đáng thương, cho thấy bộ mặt tàn ác bất nhân của thực dân Pháp. Thế nhưng khi chiến tranh nổ ra, bọn Thực dân Pháp bộc lộ bộ mặt lừa bịp bỉ ổi, chúng dùng những lời lẽ hoa mỹ, gọi là “con yêu, bạn hiền” phong cho họ cái danh hiệu “chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do” không những thế, chúng còn bắt người dân thuộc địa phải đi lính.
Mặc dù không muốn nhưng những người dân thuộc địa chỉ là những người thấp cổ bé họng không làm gì khác được nên đành phải chấp nhận đi lính hoặc xì tiền ra. Chúng dùng lời lẽ lừa lọc dối trá “tấp nập đầu quân, không ngần ngại dời bỏ quê hương” thế nhưng trên thực tế họ bị xích, trói, nhốt lại, họ bị bọn thực dân Pháp bắt đi lính. Chúng dùng thủ đoạn bỉ ổi, đầu tiên chúng bắt người dân nghèo và khỏe mạnh, sau đó chúng quay sang xoay tiền của nhà giàu, chúng giao nộp số người trong một thời gian quy định và chúng gọi đó là chế độ lính tình nguyện. Than ôi!, số phận của người dân thuộc địa thật là trớ trêu. Họ phải đi lính “làm mồi cho thủy lôi”, “bỏ xác ở dùng Ban-căng hoang vu”, “lấy máu mình tưới lên vòng nguyệt quế”, “lấy xương mình chạm vào chiếc gậy của ngài thống chế”, “số phận của họ không gì có thể thảm thương hơn”. Thế mà 70 vạn người đặt chân lên nước Pháp thì 8 vạn người không thể nhìn thấy mặt trời trên đất mình nữa. Chứng tỏ thuế máu là thứ thuế vô cùng tàn ác vì họ phải lấy máu mình, hy sinh cả tính mạng của mình để làm bia đỡ đạn cho thực dân Pháp. Thế mà sau chiến tranh lời lẽ hoa mỹ của bọn thực dân Pháp như im bặt. Chúng quay ngoắt lại, đối xử với họ rất tàn bạo họ lại bị coi là những tên An nam mít bẩn thỉu. Chúng cho họ ăn như cho lợn ăn, nhồi nhét họ cho họ ngủ như cho lợn ngủ và họ lại phải chịu số phận thảm thương. Sau chiến tranh bản chất tàn ác bất nhân, bộ mặt lừa bịp của thực dân Pháp được bộ lộ rõ nhất.
Toàn bộ bài văn, xét về mặt nghệ thuật thì cái nổi trội nhất là bút pháp trào phúng: ngôn ngữ trào phúng, ngữ điệu trào phúng, kết cấu, lập luận nhằm mục đích trào phúng. Tác giả của nó đã sử dụng cách đánh chính diện, đánh vỗ mặt theo lối bóc trần tâm địa của kẻ lừa bịp mị dân, dồn chúng vào đến chân tường không nơi ẩn nấp. Còn cách đánh lại rất văn chương, đã đạt đến chiều sâu của sự thâm thuý.
-
Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của bọn chế độ thực dân đế quốc. Mở đầu là chương: Thuế máu đầy uất hận.
Thuế máu là cái tên thật ý nghĩa! Thuế máu đã gợi lên được tội ác của chính quyền thực dân và bao hàm cả lòng căm phẫn, sự mỉa mai của tác giả đối với tội ác đó. Bọn thực dân đế quốc xâm lược và cai trị thuộc địa đã gây ra nhiều tội ác đối với người dân bản xứ. Nhưng có lẽ tội ác bóc lột Thuế máu là tội đáng ghê tởm nhất. Song điều đáng chú ý trong Bản án chế độ thực dân Pháp là việc lợi dụng xương máu của người dân thuộc địa được bọn đế quốc ngụy trang bằng bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần được bộ mặt tàn bạo và sự lừa bịp trơ tráo, bỉ ổi của chúng.Ngay ở phần thứ nhất của chương, bộ mặt thực của bọn thực dân đã hiện nguyên hình.
Chiến tranh và người bản xứ. Chiến tranh có liên quan gì đến người bản xứ? Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) giữa các nước đế quốc diễn ra ở chiến trường châu Âu tưởng như chẳng có quan hệ gì với người dân ở các xứ thuộc địa châu Á và châu Phi. Thế nhưng nó lại có quan hệ rất mật thiết. Bởi người dân thuộc địa bị sử dụng làm vật hi sinh cho quyền lợi của bọn thực dân đế quốc trong cuộc chiến tranh thảm khốc ấy.
Để vạch trần tội ác và sự lừa bịp của chính quyền thực dân trong việc bóc lột thuế máu. Nguyễn Ái Quốc đã so sánh thái độ của các quan cai trị ở hai thời điểm: trước chiến tranh và khi cuộc chiến tranh đã nổ ra. Trước chiến tranh, người dân bản xứ được xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử, đánh đập như súc vật: Trước năm 1914 họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Khi chiến tranh vừa bùng nổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc, vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quí ấy thế mà khi cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yếu, những người "bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tôi cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Đưa ra hai bức tranh tương phản về hai thái độ của các quan cai trị thực dân ở hai thời điểm khác nhau, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần được thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biến người dân thuộc địa thành vật hi sinh.
Và đây, sự bóc lột thuế máu của chúng thật tàn bạo: bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Để có được con số 70 vạn người, chính quyền thực dân cai trị thuộc địa đã sử dụng các thủ đoạn và mánh khóe bắt lính. Thủ đoạn và mánh khóe ấy được Nguyễn Ái Quốc gọi bằng một cái tên đầy mỉa mai: chế độ lính tình nguyện! Để che giấu sự thật, bọn cầm quyền thực dân đã dùng những lời lẽ bịp bợm: Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương biết bao trìu mến để người thì hiến dâng xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ. Chính quyền thực dân rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa trong khi chính chúng đang tiến hành những thủ đoạn và mánh khóe bắt lính hết sức trơ tráo và bỉ ổi. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến miền ngược, khắp các hang cùng ngõ hẻm ở các xứ thuộc địa, những cuộc lùng sục, vây bắt và cưỡng bức đi lính đã diễn ra: thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh và nghèo khổ. Không ít người đã tìm cách thoát thân. Vì thế, bọn thực dân đã không ngần ngại trói, xích, nhốt họ như người ta nhốt súc vật, kể cả việc sẵn sàng trấn áp: Tốp thì bị xích tay điều về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường học ở Sài Gòn có lính Pháp canh gác, có lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn. Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên…
Dã man hơn, đối với các thanh niên Xê-nê-gan không chịu đi lính chết thay cho bọn đế quốc, một tên thực dân Pháp bắt thân nhân họ ra hành hạ. Hắn bắt ông già, bà già, đàn bà có thai, con gái, đem lột trần truồng, hai tay bị trói ghì. Những nạn nhân bị bắt ấy phải chạy qua những thôn xã dưới làn roi vọt. Ghê tởm thay những cảnh dã man của nền văn minh Pháp! Ghê tởm hơn nữa là trong khi bắt lính, các quan cai trị thực dân còn lợi dụng để xoay xở kiếm tiền: sau đó chúng mới đòi đến con cái các nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra.
Sang phần III của chương: Kết quả của sự hi sinh một lần nữa Nguyễn Ái Quốc lại cho người đọc thấy được bộ mặt trơ tráo tàn nhẫn của chính quyền thực dân được bộc lộ một cách trắng trợn: Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô lẫn người An-nam-mít mặc nhiên trở lợi giống người bẩn thỉu.
Nguyễn Ái Quốc kể tiếp: Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỷ niệm đủ thứ… trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường năm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị thực dân biết ơn đón tiếp đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thê là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi đó sao?. Như vậy chiến tranh kết thúc thì cũng là lúc bọn thực dân đế quốc ngang nhiên và công khai lộ rõ bộ mặt tráo trở, vô nhân đạo. Người dân thuộc địa lại trở lại với giống người hèn hạ sau khi bị bóc lột kiệt cùng thuế máu. Đó là điều dễ hiểu bởi vì làm gì có chính nghĩa và công lí ở bọn thực dân!
Dã man nữa chính quyền thực dân còn: không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi bằng cách cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp và vợ con tử sĩ người Pháp.
Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong, và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa trơ trên, bản chất tàn bạo của chính quyền thực dân xung quanh việc bóc lột thuế máu được phơi bày toàn diện và triệt để. Thuế máu là chương mở đầu đầy mãnh liệt và khủng khiếp như hồi I vở kịch Hăm-Lét bỗng vua cha xuất hiện giữa đêm khuya, vô cùng giận dữ và kêu gọi báo thù.
-
Trên con đường đi tìm đường cứu nước cho dân tộc mình, Nguyễn Ái Quốc - Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, vị cha già dân tộc; Người luôn một lòng đấu tranh chống lại bọn Thực dân bịp bợm, xấu xa, ác. Cống hiến về mọi mặt, bằng tất cả những sức lực Người đã dùng văn chương như vũ khí lợi hại để phục vụ múc đích cao đẹp của mình. Từ đó đã để lại rất nhiều tác phẩm để đời trong đó tiêu biểu phải nhắc đến “Thuế máu”. Ngay từ nhan đề “thuế máu” đã gợi cho ta một thảm cảnh đẫm máu tàn sát. Đó chính là máu của dân ta phải đổ trước những roi da, dây quất của bọn thực dân Pháp bỉ ổi khi chúng xâm lăng đất nước ta. Đồng thời phần nào thể hiện thái độ phẫn nộ, căm thù khi chứng kiến cảnh dân tộc bị áp bức đến cùng cực.
Đoạn trích với bố cục ba phần đã bóc trần các chính sách lừa bịp, lừa phỉnh khi bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương khô tủy mục của chế độ thực dân cai trị. Đó chính là bản chất “ăn thịt người” của lũ thực dân bỉ ổi.Phần một với nội dung cáo trạng là: chiến tranh và người bản xứ. ở đây tác giả nêu lên sự đối lập về thái độ của các quan cai trị trước và sau khi tham gia chiến tranh. Trước chiến tranh, về với cuộc sống đời thường người dân thuộc địa chỉ là lũ người hạ đẳng, ngu si, dốt nát với cái mác tên “an-nam-mít” bẩn thỉu đen đuốc, “giỏi lắm chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị”.
Thế nhưng khi chiến tranh xảy ra, họ lại được phong với danh hiệu tối cao “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Các quan lại, quan cai trị quay mặt ra dụ dỗ, ca tụng, nâng niu như một viên ngọc quý giá, nhưng thực chất là bồi bổ cho tấm bia đỡ đạn cho chúng ở ngoài chiến trường cam go kia. Tác giả đưa ra hai mặt đối lập từ đó mà vạch trần bộ mặt gian trá, bỉ ối đến ghê người của lũ người sâu bọ kia bằng với giọng điệu không quá gào thét mà chỉ mỉa mai nhẹ nhàng nhưng cũng đủ để thấm đượm cái bản chất ăn thịt người chúng.
Tác giả đưa ra một con số cụ thể về số người dân thuộc địa khi tử vong ở các cuộc chiến tranh thuộc địa phi nghĩa: “Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp, trong số ấy tám mươi vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa”. Phần hai văn bản với nội dung: Chế độ lính tình nguyện. ở phần này Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần một cách trắng trợn bộ mặt bỉ ổi , thủ đoạn của bọn thực dân khi thực hiện chế độ bắt lính. Chúng tiến hành các cuộc vây bắt, đàn áp dã man, bắt người dân thuộc địa đi linh. Nếu không đi chúng cũng có đủ thủ đoạn tàn bạo mà bắt ép dã man: trói, bắt, đánh đập…còn đối với các gia đình khá giả chúng cũng không để yên mà cứ ám khỏe mà vòi vĩnh đòi “nôn” ra tiền cho chúng mới tha.
Nhưng có một thực trạng nực cười là trong khi chúng thi hành các chính sách dã man kia thì đồng thời cũng không quên rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của nhân dân. Lời tuyên bố của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng làm lộ ra bản chất đầy bịp bợm nực cười của chúng “các bạn ấy đã tấp nập đầu quân, không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thơ”.
Qua đó ta thấy được mặt bản chất bên trong phía sau hai chữ “tình nguyện” cao đẹp mà bọn bỉ ổi kia đã gian trá mà ca tụng. mấy ai rõ là phía sau chữ tình nguyên ấy là loạt những hành động dã man, thủ đoạn bắt lính bỉ ổi của bọn thực dân Pháp. Vẫn giọng điệu mỉa mai châm biến đến sâu cay cùng lối tài tình thong minh khi đưa chính lời nói của ngài toàn quyền Đông Dương, chỉ làm tang sự lố bịch trò hề mà chúng đang diễn mà thôi. Sau đó ta vẫn thấy xúc động, nghẹn ngào mà đầy xót xa của Người cũng như những độc giả về hình ảnh một đất nước nô lệ lại chính là đồng bào minh đang bị dày xéo đến lầm than, đói khổ.
“Thuế máu” như bản cáo trạng, buộc tội, là minh chứng rõ ràng về bản chất của bọn thực dân Pháp bỉ ổi, đê tiện. cũng là một bức tranh về cuộc sống người dân An Nam đương thời, là một lòng yêu nước nồng nàn ẩn sau trong từng con chữ.
-
Trên con đường lịch sử của dân tộc, bài học về sự bạo lực, áp bức từ thực dân Pháp tại Việt Nam trong giai đoạn thuộc địa đã ghi lại nhiều trang đau đớn. Trong số những thủ đoạn gây đau đớn đó, Thuế Máu - một biểu hiện rõ ràng của sự thối nát tư duy và lòng tham vô đạo của thực dân Pháp, đã làm nổi bật hơn tình thế bi kịch của dân tộc Việt Nam trước sự xâm lăng của họ.
Đầu tiên, Thuế Máu không chỉ là một biểu hiện của sự tàn bạo mà còn là sự hiện thực hóa của sự vô nhân đạo. Thực dân Pháp đã sử dụng biện pháp này như một công cụ để cưỡng chế và kiểm soát dân chúng, bằng cách tạo ra một hình thức thu thuế áp đặt không thể chịu đựng được cho người dân Việt Nam. Họ không chỉ lấy đi của dân chúng những gì hiện có mà còn đẩy họ vào cảnh nghèo đói, khốn khổ. Việc thu thuế máu không chỉ làm suy yếu nền kinh tế mà còn làm suy thoái tinh thần và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, Thuế Máu cũng là biểu hiện của sự tham nhũng và hà khắc từ phía thực dân Pháp. Thực dân không chỉ thu thuế với mục đích đảm bảo nguồn tài chính cho việc xây dựng các dự án của mình mà còn sử dụng nó để làm giàu bản thân, bằng cách thâu tóm và chiếm đoạt những nguồn lợi ích của dân chúng. Họ không ngần ngại sử dụng mọi biện pháp tàn ác, từ sự đe dọa cho đến việc tra tấn để ép buộc dân chúng phải nộp thuế, điều này chỉ làm gia tăng sự căm hận và khinh bỉ của dân chúng đối với họ.
Cuối cùng, Thuế Máu cũng là biểu tượng của sự không công bằng và sự chia cắt của thực dân Pháp. Họ thiết lập một hệ thống thuế áp đặt không công bằng, gánh nặng lên vai của những người nông dân, lao động vất vả nhất trong xã hội. Trái lại, họ chăm sóc và bảo vệ lợi ích của những nhà địa chủ và tư bản, tạo ra một khoảng cách ngày càng lớn giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động, làm sâu thêm nỗi khổ đau và bất bình của dân chúng.
Tóm lại, qua bài Thuế Máu, chúng ta thấy rõ hình ảnh của sự bạo lực, vô nhân đạo và tham nhũng từ thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là một cái nhìn về quá khứ đau thương mà còn là một cảnh báo cho tương lai, về sự đồng lòng và sự kiên định cần thiết để đấu tranh cho công bằng và tự do của mỗi quốc gia.
-
Trên con đường chiến đấu chống lại sự thống trị và áp bức của thực dân Pháp, bài thơ "Thuế máu" của Hồ Chí Minh là một biểu tượng đầy ý nghĩa, làm bật mí về tội ác và sự tàn bạo mà thực dân Pháp đã gây ra đối với dân tộc Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập.
Trong bài thơ, Hồ Chí Minh đã vẽ ra một bức tranh đau thương về cuộc sống của dân làng Việt Nam dưới chế độ thực dân Pháp. Qua những từ ngữ chân thực và sâu sắc, ông mô tả cảnh tượng của những người nông dân phải gánh chịu gánh nặng của thuế áp đặt, khiến họ phải đau đớn chịu đựng sự nghèo đói và khốn khó. Bức tranh đó không chỉ là biểu hiện của sự đau khổ vật vã của dân làng, mà còn là một cái nhìn sâu sắc vào tội ác và sự vô nhân đạo của thực dân Pháp.
Bên cạnh đó, bài thơ còn lên án sự phản bội của những người cán bộ địa phương, những kẻ lợi dụng quyền lực của mình để hành động như công cụ cho thực dân, làm người trung gian truyền đạt và thực thi chính sách áp bức lên dân. Họ không chỉ là kẻ phản bội về mặt đạo đức mà còn là kẻ phản loạn trước tinh thần tự do và lòng yêu nước của dân tộc.
Bài "Thuế máu" của Hồ Chí Minh không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là một tuyên ngôn chống lại sự xâm lược và áp bức của thực dân Pháp. Nó khơi dậy tinh thần tự giác và đoàn kết của dân tộc Việt Nam, góp phần làm nên sức mạnh của cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Qua bài thơ này, chúng ta nhớ về những hy sinh của những người anh hùng đã chiến đấu cho độc lập, tự do của đất nước và biết ơn sự đoàn kết, tinh thần quyết tâm của toàn bộ dân tộc trong cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức và chinh phục của thực dân Pháp.
-
Bài thơ "Thuế máu" của Hồ Chí Minh là một tác phẩm văn học nổi tiếng, với nội dung sâu sắc phản ánh sự bạo lực và áp bức của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam vào thời kỳ đầu của cuộc đấu tranh giành độc lập. Qua bài thơ này, Hồ Chí Minh đã phê phán mạnh mẽ những hành động tàn bạo, thiếu nhân tính của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi sự đoàn kết và kháng chiến của nhân dân.
Đầu tiên, bài thơ tập trung vào việc mô tả sự khổ cực và đau đớn mà dân làng phải chịu đựng dưới chế độ thuế máu của thực dân Pháp. Nhà thơ sử dụng những hình ảnh sống động như "Một phen thuế máu, người ra chết, vật tan, vườn chết, còn cây chết", để thể hiện sự tàn ác và đau đớn mà thuế máu mang lại cho cuộc sống của người dân Việt Nam. Việc này làm cho độc giả cảm nhận được sự bất công và ác độc của chế độ thực dân Pháp.
Thứ hai, bài thơ cũng phản ánh sự tự phản bội của một số cá nhân trong cộng đồng, những người làm việc cho thực dân Pháp để bảo vệ lợi ích cá nhân mà không quan tâm đến lợi ích chung của dân tộc. Hồ Chí Minh đã lên án sự phản bội này qua những câu văn như "Thế mà quê hương, còn ai yêu?". Ý nghĩa của câu thơ này là đánh thức lòng tự ái, lòng yêu nước của những người dân, kêu gọi họ tự nguyện tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược và áp bức của thực dân Pháp.
Tóm lại, bài thơ "Thuế máu" của Hồ Chí Minh không chỉ là một tác phẩm văn học nghệ thuật mà còn là một tuyên ngôn chống lại sự bạo lực và áp bức của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam. Qua bài thơ này, chúng ta nhớ về những nỗi đau, khổ cực mà dân tộc đã phải chịu đựng, và cũng nhớ về quyết tâm và ý chí của những người đã hy sinh để bảo vệ đất nước.