Top 10 Giống ngựa tốt nhất thế giới

Trịnh Ngân 13497 1 Báo lỗi

Ngựa là một trong những loài động vật quý giá nhất của con người. Chúng không chỉ là bạn đồng hành trung thành, mà còn là biểu tượng của sức mạnh, nhanh nhẹn ... xem thêm...

  1. Tổ tiên của giống ngựa này có thể có từ những loài động vật sống cách đây 3.000 năm, được biết đến với một số tên, nhưng thường gặp nhất là ngựa Nisean. Tuy nhiên, tổ tiên chính xác rất khó để truy tìm, bởi vì trước khoảng năm 1600 sau Công nguyên, các giống ngựa theo nghĩa hiện đại không tồn tại; thay vào đó, ngựa được xác định theo chủng hoặc loại địa phương. Giống ngựa này rất giống và có thể là hậu duệ trực tiếp của ngựa Turkoman, một giống ngựa được cho là đã tuyệt chủng, mặc dù một dòng có liên quan có thể được lai tạo ngày nay ở Iran. Các giống hoặc chủng khác có nguồn gốc từ Turkoman cũng bao gồm Yomud, Goklan và Nokhorli. Một số nhà sử học tin rằng đây là các chủng khác nhau của cùng một giống.


    Các chủng cổ đại khác có thể đã góp phần tạo nên giống chó này bao gồm những loài được đặt tên là Massaget và Parthian. Cũng có những tuyên bố rằng ngựa Akhal-Teke là hậu duệ của ngựa Fergana ban đầu được nuôi ở thung lũng Fergana vào năm 104 trước Công nguyên. Nó vẫn còn là một câu hỏi tranh cãi về "con gà hay quả trứng" liệu người Ả Rập có ảnh hưởng là tổ tiên của người Turkoman hay được phát triển từ giống chó đó, nhưng bằng chứng DNA hiện tại chỉ ra một tổ tiên chung có thể có cho cả hai. Theo báo cáo, một số lượng đáng kể ngựa cái Ả Rập đã được sử dụng để cải thiện giống ngựa trong thế kỷ 14 và 19. Cũng có thể là những giống được gọi là "máu nóng", Arabian, Turkoman, Akhal-Teke và Barb đều phát triển từ một tiền thân "ngựa phương Đông" duy nhất. Những người thuộc bộ lạc ở nơi ngày nay là Turkmenistan lần đầu tiên sử dụng Akhal-Teke để đột kích.


    Những con ngựa là vật sở hữu quý giá nhất của họ vì chúng rất quan trọng đối với thu nhập và sự tồn tại. Họ đã lai tạo một cách chọn lọc những con ngựa của mình, lưu giữ hồ sơ về phả hệ thông qua một truyền thống truyền miệng . Ngựa được quản lý và huấn luyện theo những cách rất cụ thể. Những con ngựa đực được buộc chặt bên cạnh lều trong khi ngựa cái và ngựa con được tự do kiếm thức ăn. Những con ngựa giống được bao phủ từ đầu đến đuôi với bảy lớp nỉ, giúp bộ lông của chúng luôn ngắn và sáng bóng. Trước các cuộc đột kích, chúng được áp dụng một chế độ ăn kiêng thưa thớt để chuẩn bị cho chuyến đi dài qua sa mạc, không có nước và hầu như không có thức ăn. Những con ngựa được gọi là Argamaks(Ngựa thiêng hoặc Ngựa thiêng) của người Nga và ngựa trời của Trung Quốc cổ đại, và được yêu mến bởi những người coi trọng tốc độ và sức chịu đựng của chúng trong sa mạc và lòng trung thành với chủ nhân của chúng. Các hoàng đế nhà Hán từ Trung Quốc đã tiến hành hai cuộc viễn chinh để đảm bảo an ninh cho "ngựa trời". Và việc tiếp cận những giống ngựa này đã thúc đẩy thành công trong chiến dịch tương lai của Trung Quốc chống lại các nước láng giềng du mục của họ .


    Giống ngựa này đã bị ảnh hưởng nặng nề khi Liên Xô yêu cầu ngựa bị giết thịt để lấy thịt, mặc dù những người Thổ Nhĩ Kỳ địa phương từ chối ăn thịt chúng. Có thời điểm chỉ còn lại 1.250 con ngựa và việc xuất khẩu từ Liên Xô bị cấm. Chính phủ Turkmenistan hiện sử dụng những con ngựa này như một món quà ngoại giao cũng như bán đấu giá một số con ngựa để gây quỹ cho các chương trình cải thiện chăn nuôi ngựa. Vào đầu thế kỷ 20, việc lai tạo giữa Ngựa thuần chủng và Akhal-Teke đã diễn ra nhằm mục đích tạo ra một loài ngựa đua đường dài nhanh hơn. Tuy nhiên, Anglo Akhal-Tekes không kiên cường như tổ tiên Akhal-Teke của họ, và nhiều người đã chết do điều kiện khắc nghiệt của Trung Á. Sau cuộc đua sức bền dài 420 km (2.600 dặm) từ Ashkabad đến Moscow vào năm 1935, khi những con thuần chủng hoàn thành trong tình trạng tốt hơn nhiều so với những con lai, ban quản lý trại ngựa giống đã quyết định coi tất cả những con ngựa lai sinh sau năm 1936 là không phải thuần chủng. Từ năm 2014 trở đi, xét nghiệm DNA dựa trên nang tóc là đủ nếu DNA của cha mẹ có trong hồ sơ. Một con ngựa giống không sản xuất đúng loại ngựa có thể bị loại bỏ. Ngày nay người ta cho phép thụ tinh nhân tạo cũng như chuyển phôi.


    Đặc điểm nổi bật:

    • Akhal-Teke có kích thước trung bình, thường dài từ 144 đến 160 cm ở vai, với trọng lượng từ 430 đến 500 kg. 433  Màu lông rất khác nhau: thường gặp nhất là màu vịnh (khoảng 40%), màu đen (khoảng 22%), màu đen (khoảng 12%) và màu hạt dẻ (khoảng 11%); các màu khác bao gồm xám, kem và vàng. 433  bộ lông thường có ánh kim loại đặc trưng, trong đó lông có thể tạo ra hiệu ứng vàng bất thường. Đôi khi người ta khẳng định rằng điều này đã tạo ra sự ngụy trang trong sa mạc.
    • Akhal-Teke có một cái đầu tinh tế với phần lớn là thẳng hoặc hơi lồi và đôi tai dài. Nó cũng có thể có mắt hình quả hạnh hoặc "trùm đầu". Bờm và đuôi thường thưa thớt. Lưng dài có cơ bắp nhẹ và được kết hợp với một cái mông phẳng và cổ dài, thẳng đứng. Akhal-Teke sở hữu vai dốc và làn da mỏng. Giống ngựa này rất dẻo dai và kiên cường, đã thích nghi với sự khắc nghiệt của vùng đất Turkmenistan, nơi ngựa phải sống mà không có nhiều thức ăn hoặc nước uống. Điều này cũng làm cho những con ngựa tốt cho các môn thể thao. Giống chó này được biết đến với khả năng chịu đựng, như được thể hiện vào năm 1935 khi một nhóm các tay đua người Thổ Nhĩ Kỳ đạp xe 4.000 km (2.500 dặm) từ Ashgabat đến Mátxcơvatrong 84 ngày, bao gồm cả ba ngày vượt qua 378 km (235 mi) sa mạc không có nước. Akhal-Teke cũng được biết đến với hình dáng và sự duyên dáng như một vận động viên nhảy show.
    • Chất lượng của ngựa Akhal-Teke được xác định bởi người quản lý sách hướng dẫn. Tùy thuộc vào loại, hình dạng, phả hệ, chất lượng của con cái và thành tích trong thể thao, những con ngựa được chỉ định là Elite hoặc Class I hoặc Class II. Thường có 2 sự kiện phân loại hàng năm ở Moscow, Nga được gọi là "Đại hội thể thao quốc tế và giải vô địch thế giới" Heavenly Argamak "và" Golden Akhal-Teke Cup Shael ", nơi các nhà lai tạo giới thiệu những con ngựa tốt nhất của họ cho một nhóm giám khảo. Giải vô địch thế giới, một nhóm giám khảo đánh giá những con ngựa theo độ tuổi và giới tính cũng như các môn thể thao khác nhau và hạng dây.
    Ngựa Akhal-Teke
    Ngựa Akhal-Teke
    Ngựa Akhal-Teke
    Ngựa Akhal-Teke

  2. Chủng loại Ngựa Ăng-lê (Anglais) được phát triển trong thế kỷ 17 tại Anh và được định hình dần ở thế kỷ 18. Đấy là kết quả lai tạo giữa 1 loài ngựa cái tốt nhất ở Anh với một trong ba loại ngựa đực nổi tiếng thời điểm bấy giờ là Ngựa Ả Rập, Ngựa Barb (Ngựa Bắc Phi) và Ngựa Turkoman (Trung Đông, nay đã tuyệt chủng). Nòi ngựa này có tầm vóc cao lớn, từ 1m4 tới 1m5, nặng tới 400 ký, gồm Hồng Mã (màu nâu đỏ) và Bạch Mã (màu lông trắng). Vóc dáng cũng khỏe mạnh cân đối như các nòi ngựa chiến trên, nên thuở xưa, nước Anh giữ ngôi vị bá chủ thế giới trong hằng bao thế kỷ cũng nhờ đoàn kỵ binh kiêu hùng và thiện chiến. Từ cuối thế kỷ 18, ngựa Ăng lê bắt đầu lan rộng ra phạm vi ngoài nước Anh. Nó được nhập vào Mỹ, Nhật, Australia, châu Âu, và ngày càng phát triển. Hiện có hàng triệu con Ngựa Ăng-lê (Anglais) trên khắp thế giới, mỗi năm lại có khoảng 180 nghìn con được đăng ký mới. Hiện nay ngựa Ăng lê đa phần được sử dụng trong các cuộc đua, đây cũng là loài ngựa được đánh giá là đắt giá nhất thế giới. Với danh hiệu loài ngựa đắt giá nhất thế giới, việc sử dụng một con ngựa thuần chủng phải thông qua rất nhiều giấy phép và thủ tục phức tạp.


    Thủ tục đăng ký con ngựa Ăng-lê (Anglais) cũng chặt chẽ, với danh tính bố mẹ cùng nơi sinh, ngày sinh rõ ràng chẳng khác gì người ta làm giấy khai sinh. Trên nguyên tắc, thông qua sổ sách được lưu trữ ở các tổ chức có thẩm quyền và đầy uy tín. Có thể lần ngược nguồn gốc của một con ngựa Ăng lê, cho đến cội nguồn của nó: con ngựa cái này ở Anh và con ngựa đực nào thuộc một trong 3 chủng loại Arab, Barb, Turkoman được nhập khẩu cách đây những 400 năm. Tương truyền, sau khi lên ngôi, sứ giả nước Anh là Chapman tới yết kiến, Nguyễn Nhạc đặt vấn đề có ngay một con ngựa Ăng Lê. Thái Đức hoàng đế đặc biệt muốn có ngựa ngoại với bất cứ giá nào và ông đã nhờ Chapman chuyển thư cho Toàn quyền Bengale yêu cầu một con ngựa nâu sẫm với đôi tai nhỏ và đẹp, dựng đứng lên trong chuyến tàu sớm nhất cập vương quốc của mình qua cảng Thi Nại. Ngày nay, ở Việt Nam, có nhập và nuôi ngựa Ăng-lê (Anglais) trên Tây Nguyên ngày càng sinh sôi đông đúc. Đến nay đã được 116 con. Để nhập được những con ngựa Ăng Lê và nòi ngựa quý của Đức, ngựa Ả rập, ngựa Mông Cổ, người nuôi trực tiếp dự một phiên đấu xảo ngựa ở Úc để đấu giá từng con. Số ngựa cỏ, ngựa lai đủ màu trên Langbiang mà nhìn thấy đàn ngựa Ăng lê thuần chủng ở Krông Á to lớn gần gấp đôi, có nhiều con đực cao tới mét bảy nặng bốn tạ, có con nặng tới gần nửa tấn.


    Đặc điểm nổi bật:

    • Các đặc điểm của ngựa Ăng-lê (Anglais) như đầu nhẹ, cổ nhỏ và dài hướng về phía trước, ngực rộng, 4 chân dài, chân trước luôn có sự cong khớp xương bẩm sinh, gân thô, gân xương phân tách rõ ràng, móng chắc chắn. Ngựa Ăng lê đực trưởng thành cao 159.0 cm, vòng ngực 183.0 cm, ống tròn 20.0 cm, con cái có số đo lần lượt là 156.4 cm, 179.2 cm và 19.2 cm, sức kéo lớn nhất là 40 kg. Trong 300 năm qua, chúng không ngừng được cải tiến nòi giống để nổi bật những tố chất cần thiết của một chiến mã chuyên nghiệp gồm cao to, mạnh mẽ, thể hình tuyệt đẹp và tốc độ tuyệt vời. Tốc độ đạt nhanh nhất của ngựa thuần chủng ở cự ly từ 1 đến 3 km và tốc độ cực đại hơn 60 km/giờ.
    • Ngựa Ăng lê không có con cái. Khoảng 1 tuổi 2 tháng thì mã phu dẫn chúng đi gặp bác sĩ thú y để tuyệt nọc tức là phải bị thiến. Ngựa Ăng lê là giống ngựa đua ưu việt nhất thế giới hiện nay. Tuy nhiên sức đề kháng của chúng kém xa so với các loài gia súc và ngựa cỏ nên chi phí chăm sóc chúng rất tốn kém. Chiều cao trung bình của ngựa thuần chủng là 1m70. Riêng chiều dài của 2 cặp giò chiến là 1m-1,2m. Có hai loại móng dành cho ngựa thuần chủng. Loại móng thông thường dành cho tập luyện và sinh hoạt hàng ngày sẽ được thay 3 tuần/lần. Trước mỗi kỳ đua, ngựa sẽ được thay loại móng khác bằng nhôm dẻo. Với cấu tạo cơ thể, ngực nở, lỗ mũi rộng, chân dài vượt trội so với các loài ngựa khác giúp ngựa Ăng lê có tốc độ vượt trội hơn hẳn so với bất cứ loại ngựa nào khác về tốc độ.
    • Các cuộc đua ngựa nghiêm túc ngày nay đều chỉ dùng Ăng-lê (Anglais). Đây cũng là chủng loại ngựa đắt giá nhất thế giới. Hình dáng và cấu trúc cơ thể (ngực nở, lỗ mũi rộng, chân dài…) giúp ngựa Ăng lê vượt trội so với bất cứ loại ngựa nào khác về tốc độ. Tất nhiên, không chỉ có ngựa đua là quan trọng. Thế nên, vẫn còn rất nhiều chủng loại khác được cho là quý hiếm trong thế giới loài ngựa. Trong cuộc đua, ở tốc độ cực đại những con ngựa Ăng lê như dính chùm vào nhau trên một đường đua không thể cho là rộng rãi. Khi đến khúc quanh, lại càng ngặt nghèo. Nhưng hầu như không bao giờ những chú ngựa cao to kềnh càng ấy va vào nhau và lăn ra ngã.
    • Thủ tục đăng ký con Ăng-lê (Anglais) cũng rất vô cùng chặt chẽ đến mức rối rắm, với danh tính bố mẹ cùng nơi sinh, ngày sinh rõ ràng chẳng khác gì người ta làm giấy khai sinh. Trên nguyên tắc, thông qua sổ sách được lưu trữ ở các tổ chức có thẩm quyền và đầy uy tín. Có thể lần ngược nguồn gốc của một con ngựa Ăng lê, cho đến cội nguồn của nó: con ngựa cái này ở Anh và con ngựa đực nào thuộc một trong 3 chủng loại Arab, Barb, Turkoman được nhập khẩu cách đây khoảng 400 năm. Nhìn chung Nhà nước thực hiện công tác quản lý để đảm bảo sự thuần chủng của giống ngựa này và tránh nhân giống tràn lan trên thế giới.
    Ngựa Ăng-lê (Anglais)
    Ngựa Ăng-lê (Anglais)
    Ngựa Ăng-lê (Anglais)
    Ngựa Ăng-lê (Anglais)
  3. Ngựa Trakehner là một giống ngựa máu nóng (warmblood) sáng màu có nguồn gốc từ nước Đức, theo lịch sử, giống ngựa ban đầu được phát triển ở một trang trại nhân giống ngựa ở Phổ thuộc bang Đông tại thị trấn Trakehnen mà từ đó các giống có cái tên của nó là Trakehner. Các trại nhân giống ngựa của nhà nước được thành lập vào năm 1731 và hoạt động cho đến năm 1944, khi cuộc chiến của Thế chiến II đã dẫn đến sự xâm lấn của Đông Phổ của nước Nga, và thị trấn có chứa các Trại luyện ngựa này được đổi tên thành Yasnaya Polyana. Chúng là một giống ngựa thể thao chất lượng cao và từng giành nhiều giải thưởng trong các cuộc thi đấu cưỡi ngựa biểu diễn quốc tế.


    Các con ngựa Trakehner thường khi đứng thì cao khoảng 157 đến 173 cm. Chúng có thể là mang bất kỳ màu sắc nào với màu vịnh, màu xám, màu hạt dẻ và sắc màu đen là kiểu hình phổ biến nhất, mặc dù loài này cũng bao gồm vài loang nâu và tobiano pinto. Nó được coi là nhẹ nhất và tinh tế nhất của dòng ngựa máu nóng warmbloods, do sổ sách xác nhận cho phép nhập cảnh của Trakehner, cũng như vài lựa chọn cho giống ngựa Thuần Chủng Thoroughbred, ngựa Anglo-Ả Rập, ngựa Shagya và dòng máu của ngựa Ả Rập.


    Đặc điểm nổi bật:

    • Như một sự thật kỳ lạ khác về bộ lông, khi bắt đầu lai tạo giống, màu lông của nó đã được tính đến, theo sự đa dạng của nó chúng được coi là có các đặc điểm sinh lý khác biệt. Ví dụ, những con ngựa cái bọc hạt dẻ được cho là nhạy cảm, có tiềm năng lớn và sang trọng. Chúng được cho là hậu duệ của một giống ngựa thuần chủng Anh và là dòng duy nhất đến từ giống chó Hanoverian do một con ngựa giống Trakehner thành lập.
    • Đối với tính cách, đôi khi họ cho thấy họ có một độ nhạy lớn, sức mạnh và sức đề kháng. Điều này đã làm cho chúng nổi tiếng là những con ngựa khó khăn, nhưng dưới sự điều khiển của chúng, chúng trở thành một con vật đáng tin cậy.
    • Ngoài việc được mệnh danh là con ngựa yên ngựa, những người nông dân còn phát hiện ra rằng nó là một con vật có kỹ năng làm việc tốt và ít phải bảo dưỡng. Bằng cách bắt đầu được nâng lên cũng như một con ngựa làm việc sẽ không mất nhiều thời gian để biến nó thành một con ngựa kéo thanh lịch cho những toa tàu được lựa chọn nhiều hơn.
    Ngựa Trakehner
    Ngựa Trakehner
    Ngựa Trakehner
    Ngựa Trakehner
  4. Ngựa Appaloosa là một giống ngựa của Mỹ nổi tiếng với mẫu lông đốm màu sắc của nó. Màu sắc hoa văn của mỗi con ngựa là di truyền kết quả của mô hình đốm khác nhau. Các mô hình màu của Appaloosa là mối quan tâm của những người nghiên cứu di truyền màu lông ngựa. Chúng được gây giống bởi Nez Percé ở Idaho, Hoa Kỳ, từ một con ngựa Á Châu nổi tiếng ở Âu Châu trong thời kỳ Trung Cổ. Loại ngựa này được khám phá năm 1805 với Nez Percé là chủ. Phần trước của loại ngựa này thường là một màu nhưng hay có những điểm tròn màu sậm ở đùi và mông. Nổi tiếng thông minh, nhanh và bền bỉ. Thường được dùng trong các buổi trình diễn. Cao khoảng 1,4m và nặng khoảng 500 kg. Hình ảnh của ngựa thuần hóa với các mẫu đốm xuất hiện trong tác phẩm nghệ thuật từ Hy Lạp cổ đại và Hán triều đại Trung Hoa qua các thời kỳ cận đại. Appaloosa là một trong những giống phổ biến nhất tại Hoa Kỳ. Appaloosas đã được sử dụng trong nhiều bộ phim, một Appaloosa là linh vật cho Seminoles bang Florida.


    Nghiên cứu gần đây đã cho thấy rằng bức tranh hang động thời tiền sử Eurasian miêu tả con ngựa con báo đốm có thể có chính xác phản ánh một kiểu hình của con ngựa hoang dã cổ xưa. Những người Nez Perce sống trong những gì ngày hôm nay là phía đông Washington, Oregon, và miền tây Idaho, nơi họ tham gia vào nông nghiệp cũng như chăn nuôi ngựa. Họ đã tận dụng thực tế là họ đã sống ở nước có ngựa giống tuyệt vời, tương đối an toàn từ các cuộc tấn công của các bộ tộc khác.


    Đặc điểm nổi bật:

    • Có ba khác biệt "cốt lõi" của ngựa là da lốm đốm, móng sọc, và đôi mắt với một màng cứng màu trắng những vết lốm đốm da thường thấy xung quanh mõm, mắt, hậu môn, cơ quan sinh dục có sọc là một đặc điểm chung, khá đáng chú ý trên Appaloosas, nhưng không phải duy nhất. Phạm vi trọng lượng chúng thay đổi từ 950 đến 1250 bảng Anh (430 đến 570 kg), chiều cao từ 56 đến 64 inches, 142 đến 163 cm).
    • Bất kỳ con ngựa đó cho thấy đặc điểm cốt lõi của Appaloosa, da lốm đốm, móng sọc, và một màng cứng màu trắng có thể nhìn thấy. Không phải mọi Appaloosa có thể nhìn thấy đốm lông. Phần trước của loại ngựa này thường là một màu nhưng hay có những điểm tròn màu sậm ở đùi và mông. Nổi tiếng thông minh, nhanh và bền bỉ. Thường được dùng trong các buổi trình diễn. Ngựa được đặc trưng bởi một màu sắc ngoạn mục và vóc dáng cân đối. Các tính năng đặc trưng.
    • Đầu nhỏ và tai nhọn, cổ khỏe, lưng ngắn và mạnh mẽ, cơ thể tròn và mạnh mẽ, đôi chân khỏe và móng guốc mạnh mẽ, đẩy nhanh, bờm mượt.
    • Đôi mắt biểu cảm được coi là một đặc điểm đặc trưng của động vật. Bộ đồ ngựa kết hợp nhiều sắc thái. Có một số tùy chọn màu sắc - phù hợp, màu xanh lá cây, màu đốm. Roan và khăn yên ngựa có đốm cũng được tìm thấy.
    • Ngựa của giống ngựa này chủ yếu được sử dụng để đua. Chúng được phân biệt bởi sức chịu đựng và tính cách ngoan ngoãn. Những con giáp này có đặc điểm là thay đổi tốc độ nhanh, phi nước đại tuyệt vời, khả năng vượt chướng ngại vật khi phi nước đại. Những tính năng này giúp ngựa chiến thắng trong các cuộc đua.
    Ngựa Appaloosa
    Ngựa Appaloosa
    Ngựa Appaloosa
    Ngựa Appaloosa
  5. Ngựa Mông Cổ là một giống ngựa bản địa của Mông Cổ. Loài ngựa chiến nổi tiếng này sinh ra trên các vùng thảo nguyên Mông Cổ và sa mạc Gobi thời đế quốc Nguyên Mông vào thế kỷ VII-XIII. Giống ngựa này rất giỏi chịu đựng và cực kỳ dai sức lại dễ nuôi, thuần cỏ nên ít tốn kém. Ngựa Mông Cổ là giống ngựa rất giỏi chịu đựng và dai sức, tuy chỉ cao từ 130 đến 140 cm nhưng lại dễ nuôi, chỉ thuần cỏ không cũng đủ và vì thế rất ít tốn kém. Ngựa Mông Cổ có vai trò to lớn trong nền văn hóa Mông Cổ. Người Mông Cổ thuần hóa loài ngựa từ rất sớm. Số lượng chúng lại rất nhiều, người du mục sống theo kiểu truyền thống ở Mông Cổ vẫn còn nuôi hơn 3 triệu con đông hơn dân số của đất nước Mông Cổ. Đó là nòi ngựa chiến nổi tiếng đã được tạo ra trên các vùng thảo nguyên Mông Cổ đến Gôbi từ thời kỳ cường thịnh của đế quốc Nguyên Mông từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIV. Đế quốc này đã từng có một đội kỵ binh lớn và thiện chiến dũng mãnh bậc nhất thế giới, những giống ngựa ở Mông Cổ đều rất dẻo dai và nổi tiếng trên toàn thế giới, chúng được rèn luyện ở những điều kiện thời tiết khắc nghiệt.


    Ngựa Mông Cổ có tầm vóc cỡ trung bình, thậm chí là có tầm thấp, chúng chỉ cao khoảng 1,4m, toàn thân có màu nâu đỏ hoặc nâu sẫm. Chúng có thân hình cân đối, ngực nở, bụng thon, chân to, bốn chân chắc khỏe, lông dày, cổ nở, dáng không đẹp bằng ngựa Ả Rập nhưng rất khoẻ, sức bền bỉ, lại ăn ít. Giống ngựa này có tốc độ chạy khá nhanh từ 30 đến 45 km/h, tốc độ đối đa 40 km/h đặc biệt, giống ngựa này rất dai sức, có thể phi nước kiệu trong 10 giờ liền nên từ xưa ngựa Mông Cổ đã được mệnh danh là thiên lý mã. Đặc biệt khi phi nước đại, chúng luôn nhoài đầu về phía trước cho nên người cưỡi ngựa rất thuận lợi cho việc sử dụng cung tên mà không lo vướng víu. Đa phần những giống ngựa ở Mông Cổ đều rất dẻo dai và nổi tiếng trên toàn thế giới. Ngựa Mông Cổ lại dễ nuôi, chỉ ăn cỏ cũng sống được. Ở Mông Cổ, Chúng được rèn luyện ở những điều kiện thời tiết khắc nghiệt những con ngựa sống ngoài trời quanh năm ở 30 °C (86 °F) vào mùa hè xuống đến -40 °C (-40 °F) vào mùa đông. Những con ngựa Mông Cổ còn có khả năng biết cào tuyết tìm thức ăn do đó trong lịch sử chúng có thể rong ruổi từ đông sang tây theo những cánh quân Mông Cổ chinh phạt thế giới ở cả những vùng giá lạnh, chúng không hề kén thức ăn như các giống ngựa khác. Trước đây, ngựa đực đều bị thiến (gelding) để khi hành quân không nổi cơn bất tử khi thấy ngựa cái và chỉ những con đực khỏe mạnh nhất mới được giữ lại làm giống.


    Đặc điểm nổi bật:

    • Ngựa Mông Cổ thì nhỏ gọn, tính chiến đấu cao, có khả năng tự tìm nguồn nước, thức ăn và sống rất khỏe trong mọi điều kiện thời tiết. Là giống ngựa vùng thảo nguyên, tầm vóc không lớn nhưng có sức chịu đựng dẻo dai và chịu được điều kiện khô hạn của thảo nguyên. Ngựa Mông Cổ là giống ngựa kiêm dụng vừa làm việc vừa khai thác sữa phục vụ cho con người. Nếu ngựa cái được chọn lọc và nuôi dưỡng tốt có thể đạt 1lít sữa/con/ngày. Ngựa có kích thước như sau (ngựa cái): Cao vây: 126,9 cm, vòng ngực: 154,2 cm, dài thân chéo: 134,2 cm, vòng ống: 16,8 cm. Ngựa Mông Cổ được huấn luyện sao cho kỵ sĩ có thể bắn cung đủ mọi hướng trong khi chạy nhanh và sao cho thật ổn định khiến cho xạ thủ không bị trở ngại.
    • Một ưu điểm của tư thế đó là khi chạy nhanh con ngựa bao giờ cũng nhoài đầu về trước khiến cho cung thủ không bị vướng víu, có thể quay ngang quay dọc, trái phải một cách tự do. Ngựa phải được hoàn toàn tự do, không yên cương, không ràng mõm, không chở đồ nặng và chỉ được thắng giàm vào giờ phút cuối cùng trước khi xung trận. Khi hành quân, nếu cần có thể rạch một mạch máu ngay trên cổ con ngựa đang cưỡi để hút máu. Những con ngựa đó được các chiến sĩ nuôi dưỡng trực tiếp từ khi còn nhỏ, ngoan ngoãn và thân cận. Họ có thể ngồi liên tiếp trên lưng ngựa mười ngày liền, ăn ngủ trên đó. Nếu cần họ cắt thịt để dưới yên để cho thịt được "dần" mềm rồi ăn sống.
    • Mỗi chiến sĩ thường mang theo một đàn (có khi đến 18 con) để thay đổi khi cần nên tốc độ di chuyển của họ rất nhanh khiến cho nhiều nơi thấy họ ào ào kéo tới tưởng như thiên binh thần tướng trên trời đổ xuống. Ngựa Mông Cổ lại dễ nuôi, chỉ ăn cỏ cũng sống được nên vấn đề binh lương tiếp liệu giảm thiểu hẳn. Chiến sĩ Mông Cổ nếu cần có thể uống máu, ăn thịt tọa kỵ của mình nên quân đội không phải cồng kềnh những binh đội phụ thuộc, hoàn toàn có thể tập trung để chiến đấu trong khi quân đội những nơi khác chỉ sử dụng thực sự vào khoảng 1/3 nhân lực. Lúc lâm trận, mỗi kỵ binh Mông Cổ có thể sử dụng cả đôi ngựa và chiến đấu rất xuất sắc. Ngựa Mông Cổ được huấn luyện để dùng cho việc săn bắn, vận chuyển và đặc biệt là dùng trong chiến tranh. Ngựa Mông Cổ gắn liền với sự kiện quan trọng trong lịch sử thế giới đó là sự hình thành và bành trướng của đế chế Mông Cổ trên toàn thế giới thời đó. Thuật ngữ vó ngựa Mông Cổ gây khiếp đảm cho những giống dân bản xứ nhất là ở châu âu với câu nói có ngựa Mông Cổ đến đâu thì ở đó cỏ không mọc được.
    • Những con ngựa mới là loài thiết yếu hơn hết trong đời sống du mục. Trên một cõi đất bao la mà những cánh đồng cỏ thường cách nhau hàng trăm dặm đường, người Mông Cổ chỉ trông cậy vào phương tiện giao thông nhanh hơn hết là ngựa. Sữa của con ngựa được chế biến thành các airag đồ uống, và một số động vật được giết mổ thịt. Khác hơn thế, chúng phục vụ cho cả công việc hàng ngày của những người du mục và trong cuộc đua ngựa. Họ chú trọng sản xuất ngựa thật nhanh, thật nhiều vì mỗi tấc đường đều cần đến ngựa và chỉ có họ mới điều khiển nổi những con ngựa bất kham ấy.
    Ngựa Mông Cổ – Thiên Lỹ Mã
    Ngựa Mông Cổ – Thiên Lỹ Mã
    Ngựa Mông Cổ – Thiên Lỹ Mã
    Ngựa Mông Cổ – Thiên Lỹ Mã
  6. Ngựa Kabardin hay còn gọi là Cabardin có nguồn gốc từ nước Nga, phát triển vào thời kỳ Xô Viết và được nuôi phổ biến ở vùng cao nguyên Capcado và Zacapcado. Loài ngựa này đến nay đã có lịch sử hình thành trên 400 năm và đã được nhập về Việt Nam. Ngựa Kabardin hay còn gọi là ngựa Cacbacdin là giống ngựa có nguồn gốc từ nước Nga và phát triển từ thời Xô Viết, được nuôi phổ biến ở vùng cao nguyên Capcadơ và Zacapcadơ Hermes Replica Handbags (Liên Xô cũ) và chúng cũng thích ứng với điều kiện sống, làm việc ở miền núi Việt Nam. Phương thức nuôi chủ yếu là chăn thả trên đồng cỏ. Chúng có lịch sử 400 năm. Đây là giống ngựa chuyên dùng làm ngựa chiến, phục vụ cho các hoạt động tuần tra biên phòng, ngựa đua và dùng để thồ kéo. Giống ngựa này cũng đã được nhập về Việt Nam để cải tạo tầm vóc cho giống ngựa nội bản địa của Việt Nam.


    Cabadin là giống ngựa chuyên dụng, dùng làm ngựa chiến, ngựa đua và dùng để thồ kéo, Nòi ngựa này thích hợp với điều kiện thiền tiết lạnh ở Liên Xô (cũ) và các nước Bắc Âu. Từ nòi ngựa Cabardin, người ta đã tạo ra những nòi ngựa chuyên dùng như Ngựa Buclionnui, có dáng thanh được dùng chuyên cho Bộ đội biên phòng, sử dụng thích hợp ở các vùng rừng núi. Ngựa Vladimia thô hơn, bốn chân vững chãi chuyên để kéo hàng, có thể chở được 2 tấn hàng Hiện nay, giống ngựa lai ở Việt Nam Chủ yếu là con lai ngựa Cabacdin với ngựa Việt Nam.


    Đặc điểm nổi bật:

    • Cabadin là giống ngựa chuyên dụng, dùng làm ngựa chiến, đua hoặc thồ kéo. Loài ngựa này đặc biệt chịu lạnh giỏi, thích hợp với điều kiện khắc nghiệt ở các vùng có mùa đông kéo dài. Giống ngựa Cabardin có khả năng chạy đường núi hiểm trở, khó khăn. Cabardin là nòi ngựa có tầm vóc trung bình, dáng cao 1,4 đến 1,5m, nặng 350 đến 400 kg. Có những con có thể đạt chiều cao vai tới 1,6 m (nếu tính từ trán xuống phải 2,4 m), thân dài 1,7m, ước lượng 500 kg. Tầm vóc chúng thuộc loại trung bình, mình dài, ngực nở và sâu. Đầu to, thô, cổ ngắn, lưng dài, rộng thẳng. Lông màu cánh gián hoặc đen tuyền. Ngựa thuộc loại hình kiêm dụng cưỡi, thồ. Kích thước chính của chúng là có chiều cao vây 152 cm với đực, 149 cm với con cái. Vòng ngực 175 cm với con đực, 178 cm với con cái, vòng ống 19,3 cm với con đực, 18,4 cm với con cái.
    • Nòi ngựa này chịu lạnh rất giỏi, chúng thích hợp với điều kiện thời tiết khắc nghiệt như ở nước Nga và các nước Bắc Âu là những nơi có mùa đông kéo dài. Ngựa Cabacdin có khả năng chạy đường núi hiểm trở, khó khăn. Nổi tiếng nhất là các cuộc đua chạy quanh núi Capcadơ có vượt qua đèo trên hành trình 3000 km ngựa chạy hết 47 ngày đêm, trung bình đạt 64 km/ngày. Trường hợp cá biệt ngựa có thể chạy 120 đến 130 km/ngày. Ngựa Cabacdin có khả năng chạy đường núi hiểm trở, khó khăn. Trong cuộc đua quanh núi Capcadơ, ngựa Cabacdin chạy vượt đèo quanh núi hành trình 300 km trong 47 ngày, trung bình một ngày chạy 64 km.
    • Kết quả tạo được dòng ngựa lai 25% máu Cabardin và 75% máu ngựa bản địa, thích nghi nhất trong việc thồ hàng. Tất cả công thức lai tạo 25%-50%-75% máu ngựa Kabadin đều cho kết quả rất tốt. Giống ngựa 25% máu Kabadin là công thức phù hợp nhất cho miền núi, còn ngựa 50% và 70% máu Kabadin lại thích hợp cho các khu du lịch, đoàn xiếc, trang trại lớn để khai thác theo hướng cưỡi, kéo xe du lịch. Giống ngựa lai Cabacdin Việt Nam hiện nay được nhiều người chăn nuôi có điều kiện nuôi dưỡng từ trung bình đến khá và tốt lựa chọn để tăng thu nhập.
    • Giống ngựa này thích nghi tốt, sinh sản bình thường ở Việt Nam, tuy nhiên do nhu cầu dinh dưỡng cao hơn Ngựa nội, người chăn nuôi khó đáp ứng được nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng đại trà, chỉ thích hợp với nuôi ngựa đua thể thao. Ngựa Cabardin to khỏe, nhưng ngựa bản địa lại khéo léo hơn, do đó ngựa lai phù hợp để kéo xe vận chuyển hàng hóa. Miền núi cần ngựa để đi lại hoặc thồ nông sản thu hoạch từ nương về nhà, ngựa này rất phù hợp do nhiều nơi địa hình rất hiểm trở, không thể làm đường cho cho xe máy. Đến nay đã có 20.000 con ngựa lai 25% máu Cabardin đang được người dân các tỉnh miền núi nuôi.
    • Ngựa lai có thể trọng cao hơn và nhiều ưu điểm hơn ngựa Việt Nam. Ngựa lai có chiều cao trung bình 122 đến 125 cm. Ngựa lai mang 25% máu ngựa Cabacdin có nhiều ưu điểm nổi trội hơn so với giống ngựa nội như: Tầm vóc lớn hơn, trọng lượng bình quân 200 đến 220 kg/con. Ngựa đực lai 50% máu Cabadin có một số đặc điểm sinh học trong 1 lần xuất tinh: V(ml): 60 đến 80; A(%) > 65%; C (triệu/ml): 60 đến 70; pH: 6,1 đến 6,2. Ngoại hình đẹp hơn, chiều dài thân dài hơn rõ rệt chiều rộng, lưng hơi phẳng, bụng mông, vai thuôn và gọn hơn. Khả năng thích nghi dễ dàng với điều kiện khí hậu và điều kiện chăm sóc tại Việt Nam như ngựa nội và hơn hẳn ngựa nhập nội.
    Ngựa Cabardin
    Ngựa Cabardin
    Ngựa Cabardin
    Ngựa Cabardin
  7. Ngựa Clydesdale là một giống ngựa thuộc nòi ngựa kéo có nguồn gốc từ những con ngựa trong trang trại của Lanarkshire, Scotland và được đặt tên theo tên cũ của khu vực này (Clydesdale). Mặc dù ban đầu là một trong những giống ngựa nhỏ (ngựa giống nhỏ - Pony) của nòi ngựa kéo, bây giờ nó là một giống cao lớn hơn nhiều. Những con ngựa này thường có màu nâu, chúng có dấu hiệu màu trắng đáng kể trên trán do sự hiện diện của di truyền sắc trắng (sabino).


    Giống ngựa này thường được sử dụng cho nông nghiệp và vận chuyển (kéo xe), và vẫn được sử dụng cho các mục đích kéo xe cho đến ngày nay. Những con Budweiser Clydesdales là một số Clydesdales nổi tiếng nhất, và các thành viên khác của giống ngựa được sử dụng như là con ngựa đực giống của Kỵ binh Hoàng gia Anh. Chúng cũng được sử dụng để lai cải tiến các giống ngựa khác. Giống ngựa này được phát triển từ các gia đình Flemish nhập khẩu vào Scotland và lai tạo những con ngựa địa phương. Việc sử dụng đầu tiên của cái tên "Clydesdale" cho giống ngựa này là vào năm 1826, và đến năm 1830, một hệ thống thuê các tổ sư đã bắt đầu dẫn đến sự lan rộng của ngựa Clydesdale khắp Scotland vào miền bắc nước Anh. Việc đăng ký giống ngựa (thiết lập bổn bang) đầu tiên được thực hiện vào năm 1877.


    Vào cuối những năm 19 và đầu thế kỷ XX, hàng ngàn con ngựa Clydesdale đã được xuất khẩu từ Scotland và tỏa đi khắp thế giới, bao gồm cả Úc và New Zealand, nơi chúng được gọi là "giống được tạo ra ở Úc". Tuy nhiên, trong thế chiến thứ I, dân số của giống ngựa này bắt đầu giảm do gia tăng cơ giới hóa và chiến tranh. Sự suy giảm này tiếp tục, vào những năm 1970, tổ chức Rare Breeds Survival Trust coi giống ngựa này dễ bị tuyệt chủng. Dân số đã tăng nhẹ trong thời gian có các biện pháp can thiệp để cứu nguy của những người có trách nhiệm, nhưng chúng vẫn bị coi là dễ bị tổn thương.


    Vào những năm 90, sự nổi tiếng và số lượng của giống đã bắt đầu gia tăng. Vào năm 2005, tổ chức Rare Breeds Survival Trust đã chuyển giống này sang trạng thái "có nguy cơ", có nghĩa là có ít hơn 1.500 con ngựa nái ở Anh. Tuy nhiên, đến năm 2010, chúng đã bị đưa trở lại trạng thái dễ bị tổn thương. Các con ngựa Clydesdale được coi là ở trạng thái cần được theo dõi bởi Tổ chức bảo vệ giống vật nuôi ở Mỹ, có nghĩa là vào năm 2010 dưới 2.500 con ngựa được đăng ký hàng năm ở Mỹ và dưới 10.000 con trên toàn thế giới. Tính đến năm 2010, ước tính có khoảng 5.000 con Clydesdale trên toàn thế giới, với khoảng 4.000 đầu cá thể tại Hoa Kỳ và Canada, 800 con ở Anh và phần còn lại ở các nước khác, bao gồm Nga, Nhật, Đức và Nam Phi.


    Đặc điểm nổi bật:

    • Sự hình thành của giống ngựa Clydesdale đã thay đổi về hình dáng rất nhiều trong suốt lịch sử ra đời và phát triển của nó. Trong những năm 1920 và 1930, nó là một con ngựa nhỏ hơn các giống ngựa Shire, ngựa Percheron và ngựa Bỉ. Bắt đầu từ những năm 1940, yêu cầu chăn nuôi đã được chọn lọc để tạo ra con ngựa cao hơn, trông có vẻ ấn tượng hơn để phục vụ trong những cuộc diễn hành và diễu binh. Ngày nay, Clydesdale có chiều cao từ 16 đến 18 tay-đơn vị đo lường chiều cao của giống ngựa (64 đến 72 inch, 163 đến 183 cm) và nặng tới 1.800 đến 2.000 pounds (khoảng 820 đến 910 kg). Một số con trưởng thành lớn hơn, đứng cao hơn 18 tay (hand) và nặng đến 2.200 pounds (1.000 kg tức gần 1 tấn).
    • Ngựa kéo. Giống ngựa này có hình dạng mặt thẳng hoặc hơi lồi, trán rộng và mõm rộng. Nó rất khoẻ mạnh, và có cổ cơ bắp, có vai to và vai nghiêng. Các hiệp hội giống chú trọng đến chất lượng của móng chân và cẳng chân. Các những thế bước chân với những móng chân được dỡ bỏ rõ ràng và ấn tượng chung về sức mạnh và chất lượng. Ngựa Clydesdales rất tràn đầy năng lượng, với cách thức được hiệp hội ngựa Clydesdale mô tả như là một "trò vui về vận chuyển và triển vọng. Nhìn chung, chúng có ngoại hình cao lớn và rắn chắc (ngoại hình này có được qua quá trình phát triển dài hơi).
    • Những con ngựa Clydesdale đã được xác định là có nguy cơ mắc bệnh bạch huyết mãn tính tiến triển, một bệnh có các dấu hiệu lâm sàng bao gồm sưng phồng, tăng bạch cầu và xơ hóa các chi khác xa tương tự như bệnh bạch huyết mãn tính ở người. Một vấn đề sức khoẻ khác là tình trạng da ở chân dưới, nơi lông chân rậm rạp. Được biết đến với cái tên "cái ngứa của Clyde", nó được nghĩ là do một loại bệnh ho gà. Ngựa Clydesdale cũng được biết là phát triển một vết cháy nắng trên bất kỳ sắc tố da màu hồng trên khuôn mặt của chúng.
    • Những con ngựa Clydesdale thường có màu sắc đậm, nhưng một dạng đen, xám và hồng (hạt dẻ) cũng xảy ra. Hầu hết đều có các dấu hiệu trắng trên trán như hình ngọn lửa, bao gồm mặt trắng ở chân, cẳng chân và thỉnh thoảng thấy trên cơ thể (thường ở bụng dưới). Chúng cũng có lông rạm trên chi dưới của nó. Những vết Roaning tức là dấu vết cơ thể và đánh dấu màu trắng rộng được cho là kết quả của di truyền có yếu tố bạch tạng (Sabino). Một số nhà lai tạo Clydesdale muốn có khuôn mặt trắng và dấu chân mà không có dấu vết trên cơ thể.
    • Để cố gắng nhận được một bộ đánh dấu lý tưởng, chúng thường ngựa chỉ có một chân trắng đối với những con ngựa với bốn chân trắng và màu sắc sabino rải đều trên cơ thể. Trung bình, kết quả là một con ngựa với số lượng mong muốn của dấu trắng. Những con ngựa Clydesdale không có gen SB1 (Sabino 1) chịu trách nhiệm gây ra biểu hiện của biến thể Sabino ở nhiều giống khác, và các nhà nghiên cứu giả thuyết rằng một số gen khác chịu trách nhiệm cho các mẫu hình hình này. Nhiều người mua phải trả tiền bảo hiểm cho ngựa có màu sắc nâu đậm (ngựa đạm) và ngựa đen, đặc biệt là những con có bốn chân trắng (theo kiểu ô vân đạp tuyết) và những dấu hiệu mặt trắng.
    • Màu sắc cụ thể thường được ưa thích hơn các tính trạng vật lý khác, và một số người mua thậm chí còn chọn con ngựa có vấn đề về độ bền nếu có màu sắc và dấu hiệu mong muốn. Những con ngựa ngựa không được người mua ưa thích, mặc dù một số quan điểm đã cho rằng chúng cần thiết để giữ được màu sắc và kết cấu lông mong muốn. Các hiệp hội giống, tuy nhiên, không có màu sắc xấu, và những con ngựa có rải rác và các điểm cơ thể ngày càng được chấp nhận.
    Ngựa Clydesdale
    Ngựa Clydesdale
    Ngựa Clydesdale
    Ngựa Clydesdale
  8. Ngựa Andalucia hay còn được gọi là ngựa Tây Ban Nha thuần chủng hoặc PRE (Pura Raza Española), là một giống ngựa từ bán đảo Iberia, nơi tổ tiên của nó đã sống hàng ngàn năm trước đó. Các con ngựa Andalucia đã được công nhận là một giống riêng từ thế kỷ thứ 15, và cấu tạo của nó đã thay đổi rất ít trong nhiều thế kỷ. Trong suốt lịch sử của nó, nó đã được biết đến với sức mạnh của nó như là một con ngựa chiến, và được đánh giá cao bởi giới quý tộc. Loài này được sử dụng như một công cụ của chính sách ngoại giao của chính phủ Tây Ban Nha, và các vua trên khắp châu Âu khi cho ngựa cưỡi thuộc sở hữu của Tây Ban Nha. Trong thế kỷ 19, chiến tranh, bệnh tật đã làm giảm số lượng đàn lai đáng kể, và mặc dù có một số lượng được phục hồi vào cuối thế kỷ 19, xu hướng giảm tiếp tục vào đầu thế kỷ 20. Xuất khẩu của dòng ngựa Andalusian từ Tây Ban Nha đã được hạn chế cho đến những năm 1960, nhưng giống này kể từ đó lan khắp thế giới, mặc dù dân số thấp.


    Mình khỏe mạnh và nhỏ gọn nhưng vẫn thanh lịch, Ngựa Andalucian có bờm dày và đuôi dài. Màu lông phổ biến nhất là màu xám, mặc dù chúng có thể được tìm thấy trong nhiều màu sắc khác.Nổi tiếng về sự thông minh, nhạy cảm và sự ngoan ngoãn. Một tiểu chủng trong giống được gọi là Carthusian, được coi là những nhà lai tạo được sự tinh khiết nhất của Andalucia, mặc dù không có bằng chứng di truyền cho tuyên bố này. Qua nhiều thế kỷ của sự phát triển, giống Andalucia đã được chọn để chạy điền kinh và sức chịu đựng. Ngựa Andalusian có đầu có chiều dài trung bình, với một hồ sơ thẳng hoặc hơi lồi, cổ dài và rộng, chạy tới được xác định rõ vai và ngực lớn, chúng có xu hướng để có đôi chân sạch sẽ, không có xu hướng cho nhược điểm hay chấn thương.

    Đặc điểm nổi bật:

    • Nổi tiếng về sự thông minh, nhạy cảm và sự ngoan ngoãn. Một tiểu chủng trong giống được gọi là Carthusian, được coi là những nhà lai tạo được sự tinh khiết nhất của Andalucia, mặc dù không có bằng chứng di truyền cho tuyên bố này. Qua nhiều thế kỷ của sự phát triển, giống Andalucia đã được chọn để chạy điền kinh và sức chịu đựng.
    • Ngựa Andalusian có đầu có chiều dài trung bình, với một hồ sơ thẳng hoặc hơi lồi, cổ dài và rộng, chạy tới được xác định rõ vai và ngực lớn, chúng có xu hướng để có đôi chân sạch sẽ, không có xu hướng cho nhược điểm hay chấn thương.
    • Một nghiên cứu năm 2001 so với những đặc điểm động học của ngựa Andalusian, Ả Rập và Anglo-Ả Rập trong khi di chuyển ở trot. Andalusian đã được tìm thấy ít hơn (mức độ mà các vùng đất trước chân sau của móng in phía trước). Một nghiên cứu năm 2008 cho thấy rằng Andalusians kinh nghiệm thiếu máu cục bộ (giảm lưu lượng máu) bệnh của ruột non ở một tỷ lệ cao hơn so với các giống khác đáng kể; và ngựa đã có con số cao hơn thoát vị bẹn, có nguy cơ xảy ra lớn hơn các giống khác 30 lần. Đồng thời, cũng cho thấy một tỷ lệ thấp hơn của tắc ruột lớn. Trong quá trình nghiên cứu, Andalusians cũng cho thấy nguy cơ cao nhất của laminitis như một biến chứng y tế liên quan đến các vấn đề về đường ruột.
    Ngựa Andalucia
    Ngựa Andalucia
    Ngựa Andalucia
    Ngựa Andalucia
  9. Ngựa Quarter hay ngựa một phần tư dặm là giống ngựa có nguồn gốc từ Mỹ, chúng được pha giống ở Mỹ giữa loại Ngựa Thuần Chủng và loại ngựa Tây Ban Nha cổ xưa. Chúng được dùng để đua những cuộc đua một phần tư (quarter) dặm, và cũng vì vậy mà được gọi là Quater Horse. một số cá thể ngựa đã được ghi nhận đạt tốc độ ở tốc độ lên đến 88,5 km/h. Giống ngựa này còn chạy nhanh hơn cả giống ngựa nòi trong những khoảng đua ngắn. Chúng cao khoảng 1,5 mét tới 1,6 mét và nặng khoảng 450 kg, ngực rộng nhưng cổ ngắn, thường là một màu. Loại ngựa này hay được dùng để chăn nuôi gia súc như dùng để lùa bò ở các nông trại, người ta cưỡi chúng để chặn ngang mặt các con vật gia súc đang đi lạc ra khỏi đàn, khiến những con vật này phải đi trở lại vào đàn để về chuồng.


    Chúng có một cái đầu nhỏ, nhìn khá tinh tế và một thân hình cơ bắp rắn rỏi, có một bộ ngực rộng và mạnh mẽ, chân sau tròn lẳn, ngựa đua được nuôi dạy để phục vụ cho việc chạy nước rút ngắn khoảng cách khác nhau, tầm 220 đến 870 mẫu. Do đó, chúng có đôi chân dài và gọn nhẹ hơn so với các đối tác nhưng vẫn được đặc trưng bởi thân sau cơ bắp và đôi chân mạnh mẽ. Dòng ngựa quý tộc kiểu cách chủ yếu để đối chọi lại với những con ngựa quý khác và khả năng chạy nước rút đã giành cho chúng những biệt danh khá kêu như "vận động viên nhanh nhất thế giới." Khi các cuộc đua ngựa trở nên phổ biến với người dân thuộc địa, ngựa Quarter thậm chí còn trở nên phổ biến hơn vì là ngựa chạy nước rút trong các cuộc đua này, chặng đua thường là ngắn hơn so với các trường đua cổ điển theo kiểu cách của nước Anh.

    Ngựa quý sắc xuất hiện trong gần như tất cả các màu sắc. Các màu phổ biến nhất là màu nâu (cây me chua), ngựa đạm (màu nâu đỏ), một phần của nhóm màu được gọi là hồng mã (hạt dẻ). Các màu khác được công nhận bao gồm đen, nâu, da hoẵng, xám, đỏ, grullo (cũng đôi khi được gọi là màu xám tro), loang nâu đỏ, có lang xanh (thanh truy), perlino, màu kem (cremello), và ngựa trắng. Trong quá khứ, các mẫu màu đốm đã được loại trừ, nhưng bây giờ với sự ra đời của các xét nghiệm DNA để xác minh huyết thống, chấp nhận tất cả các màu sắc miễn là cả hai con ngựa cha mẹ đã được đăng ký trong sách bổn bang (stud).

      Ngựa Quarter
      Ngựa Quarter
      Ngựa Quarter
      Ngựa Quarter
    • Giống ngựa Hackney, còn được gọi là Norflok Trotter, thuộc nguồn gốc Anh Đúng được đánh giá cao vì tính linh hoạt tuyệt vời của nó. Tên của giống chó bắt nguồn từ thuật ngữ Anglo-Saxon hnegan, có nghĩa là hàng xóm. Thuật ngữ này sẽ hợp nhất với Norman bị hack mà sẽ trở thành một nguồn gốc của từ Latinh bình đẳng. Đã có trong tên của giống chó này, chúng ta có thể bắt đầu nhìn thấy sự cổ xưa của nó. Thuật ngữ Hackney đã được viết vào thế kỷ thứ mười bốn ở Anh. Ngựa Hackney là một giống ngựa được công nhận đã được phát triển ở Anh. Trong những thập kỷ gần đây, sự sinh sản của Hackney đã được hướng tới việc sản xuất những con ngựa lý tưởng cho việc lái xe. Chúng là một con ngựa có bước chân cao cao thanh lịch trong số các giống ngựa vận chuyển được phổ biến để được cho trình diễn trong các sự kiện khai thác. Ngựa Hackney có sức chịu đựng tốt, và có khả năng chạy phi kiệu ở tốc độ cao trong thời gian dài.


      Giống ngựa Hackney được phát triển vào thế kỷ 14 ở Norfolk khi vua Anh yêu cầu có một giống ngựa hùng mạnh nhưng hấp dẫn với khả năng phi nước kiệu tuyệt vời, được sử dụng cho mục đích chung là ngựa cưỡi. Vì những giống ngựa thô sơ trong những thời điểm đó, Hackney trở thành là một giống ngựa cưỡi ngựa chính và việc cưỡi ngựa là phương tiện chung của phương tiện vận chuyển bằng ngựa. Kết quả là, năm 1542 vua Henry VIII yêu cầu các đối tượng giàu có của mình giữ một số ngựa giống theo sự được cho phép để cho sản sinh phát triển giống ngựa này.


      Đặc điểm nổi bật:

      • Với chiều cao khoảng 155 cm
      • Chúng có một cái đầu khá nhỏ, hơi lồi với mặt nghiêng, nơi có hai mắt lớn. Người đứng đầu được trao vương miện bằng đôi tai nhỏ, di động dường như luôn ở trong tình trạng cảnh giác. Cổ dài và cong dẫn đến vai khỏe và ngực rộng.
      • Cơ thể của giống ngựa này rất nhỏ gọn và hình thành tốt. Nó có một tấm lưng vạm vỡ, một xương sườn tròn và gồ lên.
      • Các chi của nó là trung bình và hoàn thiện trong các trường hợp tròn và cứng. Anh ấy có rất nhiều cơ bắp ở cẳng tay và đầu gối dài, hình thành tốt.
      • Bộ lông mượt của nó thường có các lớp hạt dẻ, hạt dẻ, hạt dẻ sẫm hoặc hạt dẻ, cái sau là phổ biến nhất. Trong những thế kỷ đầu tiên của giống chó này, người ta cũng có thể tìm thấy những con Tobiano đen và Tobiano màu, mặc dù ngày nay chúng đã tuyệt chủng.
      • Trong suốt thế kỷ XNUMX và đầu thế kỷ XNUMX, những chiếc áo khoác màu tối, piebald và màu hạt dẻ được ưa chuộng hơn, thích hợp hơn để xem xe. Ví dụ, các màu nhạt hơn như hạt dẻ, vàng hạt dẻ, đỏ hạt dẻ chỉ được nhìn rõ cho đến trưa.
      Ngựa Hackney
      Ngựa Hackney
      Ngựa Hackney
      Ngựa Hackney




    Công Ty cổ Phần Toplist
    Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
    Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
    Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
    Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
    Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy