Top 10 Thông tin hữu ích nhất về loài chồn hôi
Chồn hôi là một họ động vật có vú trong bộ ăn thịt gồm chồn hôi và lửng hôi. Chúng được biết đến nhờ sự phát triển về các tuyến mùi hậu môn của chúng, được sử ... xem thêm...dụng để ngăn chặn và chống lại các động vật chúng xem là mối đe dọa cho chúng. Cùng Toplist tìm hiểu thêm nhiều thông tin hữu ích hơn nữa về loài động vật này trong bài viết dưới đây nhé.
-
Chồn có kích thước khác nhau tùy theo từng loài. Tuy nhiên, tất cả đều có phần thân dài vừa phải, đôi chân ngắn, chắc khỏe cùng phần móng vuốt dài để công việc đào bới đất diễn ra suôn sẻ hơn.
Màu lông phổ biến nhất của chồn hôi là đen và trắng. Ít xuất hiện hơn là những cá thể mang màu nâu hoặc xám. Ngoài ra còn một số lượng nhỏ chồn có bộ lông màu kem. Từ khi sinh ra, trên cơ thể của chồn đã có những cái sọc mang màu sắc xen kẽ nhau. Phần sọc này có thể mọc ở trên lưng, đuôi hoặc chân.
Thân mình chắc khỏe, đầu nhỏ, tai nhỏ, chân ngắn. Bàn chân có 5 ngón, ngón có móng vuốt. Bộ lông đen, dài, và nổi bật lên với một sọc trắng trên trán. Hai vệt trắng khác tỏa ra từ đằng sau cổ chạy xuống 2 bên; đuôi có 1 ít lông trắng, đặc biệt là ở chót trắng. Thân mình dài khoảng 0,5m; đuôi dài khoảng 0,4m; cân nặng khoảng 6kg.
-
Phần mùi hôi được tiết ra từ hai tuyến ở gần hậu môn của chồn có thể phun trúng kẻ thù ở khoảng cách 3,7 mét. Thỉnh thoảng, loài này cũng sẽ cảnh báo trước khi tiết ra mùi hôi vào đối thủ bằng cách chống chân trước, nâng cao đuôi vào gầm lên.
Một vài cá thể chồn hôi còn có thói quen “chồng cây chuối” để phun ra được nhiều mùi hôi hơn. Trong trường hợp chạm trán nhau mà đối phương còn ngoan cố không chạy đi thì chồn sẽ phun thẳng vào mắt kẻ thù để trốn thoát một cách dễ dàng hơn. Mùi hương khó chịu này sẽ lưu lại trên cơ thể “nạn nhân” khoảng vài ngày liên tiếp.
-
Chồn hôi giao phối vào đầu mùa xuân và chúng cũng là loài vật đi theo “chủ nghĩa đa thê“. Tức là, một con đực có thể giao phối với nhiều bạn tình khác nhau. Trước khi sinh (thường vào tháng 5), con cái sẽ đào một cái hang để đàn con của chúng sống. Thời gian mang thai của loài này khoảng 66 ngày.
Ngay khi sinh ra, chồn hôi sẽ bị mù và điếc bởi lúc này, cơ thể chúng đang được bao phủ bởi một lớp lông mềm. Khoảng 3 tuần sau, đôi mắt của con non mới mở ra và nhìn thế giới xung quanh.
Chồn mẹ vừa là người chăm sóc lại vừa là người bảo vệ con khỏi những nguy hiểm rình rập xung quanh.
-
Chồn hôi là những con vật lặng lẽ, trông có vẻ hiền lành, luôn thích sống gần gũi hòa thuận với nhau. Người ta thấy nhiều con chồn hôi cái thường cùng chia sẻ với nhau "lãnh địa" của mình, và thậm chí còn cùng ở chung hang ổ. Hang của chồn Mephitis mephitis nằm trong lòng đất, hang có nhiều "phòng nhỏ" và nhiều lối vào. Thỉnh thoảng chồn hôi cũng chui vào ở trong hang do lửng, cáo, gấu trúc châu Mỹ hay những con thú khác đào.
Ban ngày chúng ở dưới hang bên dưới những đống gỗ hay đống đá. Đêm là lúc thích hợp cho chúng săn mồi. Chúng đi lảng vảng tìm những con thú nhỏ, côn trùng, trứng chim, xác thối và cả trái cây để ăn.
Vào mùa đông chúng không ngủ đông, nhưng nhiều con cùng tụ họp với nhau trong hang. Có thể chúng nhận ra rằng nhiều con cùng ở cạnh nhau sẽ được ấm áp hơn. Tuy không ngủ đông, nhưng trong thời gian lạnh giá này chồn hôi cũng trở nên ít năng động.
-
Chồn hôi thực chất là loài động vật vô cùng hung hăng. Khi chồn hôi giậm chân trước và gầm gừ có nghĩa là nó đang giận dữ, nó muốn cảnh báo là sặp xịt mùi hôi bởi nó có những tuyến mồ hôi tiết ra một loại chất lỏng có mùi cực kỳ khó chịu.
Những "xạ thủ" này có thể xịt chất lỏng xa hơn 6m, và xịt đúng chính xác vào mặt kẻ thù trong phạm vi 3,7 m, chồn hôi luôn nhắm thẳng vào mặt con thú đe dọa mình. Chất lỏng đó là một vũ khí lợi hại bởi mùi đó sẽ làm cho đối phương ngưng thở tạm thời, nếu trúng mắt có thể làm cho kẻ thù không nhìn thấy gì một lúc. Tuy nhiên, chúng không bao giờ dùng mùi hôi này để chống lại những con chồn hôi địch thủ khác, mà chỉ dùng để chống kẻ thù khác loài.
Chồn hôi cũng nguy hiểm đối với con người vì chúng mang mầm bệnh dại, con người có thể bị nhiễm virus bệnh dại khi bị cắn, nhưng cũng không thể bị lây nhiễm virus này khi chúng xịt chất lỏng vào người.
-
Chồn hôi là loài ăn tạp và ăn nhiều loại động thực vật. Chúng rất háu ăn và sẽ ăn bất cứ thứ gì có thể ăn được. Điều này bao gồm những thứ như rác, đặc biệt nếu chúng sống tiếp xúc gần gũi với con người. Trong suốt một năm, chế độ ăn của chồn hôi sẽ thay đổi theo mùa. Khi có thể, chồn hôi sẽ ưu tiên ăn thức ăn nhiều chất béo, giàu calo. Chúng cũng sẽ tiếp tục ăn ngay cả khi đã no, điều này có thể gây béo phì và các vấn đề sức khỏe ở những con chồn hôi bị nuôi nhốt.
Các loại thức ăn phổ biến mà chồn hôi thích ăn bao gồm:
- Động vật có vú nhỏ (chuột nhắt, chuột cống, sóc đất và sóc chuột)
- Cá
- Chim nhỏ
- Trứng
- Động vật lưỡng cư nhỏ (ếch và kỳ nhông)
- Bò sát (rắn nhỏ và thằn lằn)
- Rác
- Côn trùng
- Mật ong
- Quả hạch
- Hạt giống
- Rau
- ...
Chồn hôi cũng sẽ ăn thức ăn thừa của vật nuôi và sẽ ăn cỏ, lá cây hoặc nấm nếu không có sẵn thức ăn khác.
-
Chồn hôi là động vật sống về đêm, chúng săn mồi và kiếm ăn vào ban đêm, khi hầu hết các loài động vật khác đã ngủ. Chồn hôi chủ yếu săn mồi bằng khứu giác và thính giác nhạy bén. Do thị lực kém, chồn hôi hiếm khi dựa vào mắt để kiếm mồi và săn mồi. Do tầm nhìn hạn chế, chúng thường chỉ phản ứng với chuyển động hoặc sự thay đổi của ánh sáng.
Chúng sử dụng chiếc mũi nhạy bén của mình để theo dõi các loại thực phẩm nặng mùi, chẳng hạn như trái cây chín, mật ong, xác động vật, rác thải hoặc con mồi nhỏ. Ngoài ra, chúng còn sử dụng thính giác để phát hiện những con mồi nhỏ trong tổ. Chồn hôi sở hữu cánh tay và móng vuốt mạnh mẽ mà chúng sử dụng để đào sâu tìm côn trùng và đào hang cho động vật có vú.
Ở tốc độ tối đa, chồn hôi có thể chạy 10 dặm một giờ, mặc dù chúng hiếm khi sử dụng tốc độ của mình để bắt mồi. Thay vào đó, chồn hôi phụ thuộc nhiều hơn vào việc bắt con mồi mà chúng không hay biết, điển hình là khi nó làm tổ trong hang.
-
Vào mùa hè, chồn hôi cố gắng ăn nhiều chất béo nhất có thể để đề phòng những tháng mùa đông khó tìm thức ăn hơn. Để hoàn thành nhiệm vụ này, chồn hôi sẽ tìm kiếm những loại thức ăn giàu calo và béo nhất có thể.
Thức ăn ưa thích của chúng vào mùa hè bao gồm cá béo và động vật có vú nhỏ như chuột, chuột chũi, chuột nhắt, sóc chuột và sóc đất. Chúng cũng sẽ nhắm mục tiêu đến các loài chim nhỏ và trứng của chúng, cũng như thằn lằn nhỏ, kỳ nhông, ếch và rắn. Côn trùng cũng chiếm một phần lớn trong chế độ ăn uống của chúng vào mùa hè, đặc biệt là ấu trùng, sâu, bọ và bọ hung.
Chồn hôi thích mật ong và sẽ tấn công tổ ong mật với sự thích thú. Bộ lông dày của chúng bảo vệ chúng khỏi vết đốt, và chúng sẽ ăn cả ong trưởng thành, ấu trùng và tổ ong. Chúng cũng thường xuyên đào bới và ăn thịt ong bắp cày và tổ ong bắp cày, lại nhắm vào cả con trưởng thành và ấu trùng. Ngoài những nguồn protein này, chồn hôi cũng sẽ ăn trái cây, lá, cỏ, quả hạch và hạt.
-
Trong suốt mùa đông, chồn hôi bước vào một thời kỳ giống như ngủ đông. Tuy nhiên, chúng không ngủ đông hoàn toàn và sẽ thức dậy để di chuyển xung quanh hoặc rời hang để kiếm ăn vào ban đêm. Như đã đề cập trước đó, chồn hôi sẽ ăn hầu hết mọi thứ mà chúng có thể tìm thấy. Vào mùa đông, thực phẩm có sẵn ít hơn, và do đó, thị hiếu của chúng mở rộng. Chồn hôi sống gần người có thể ăn nhiều rác hơn.
Nếu có thể tìm thấy thịt, chúng sẽ săn những động vật làm tổ nhỏ như chuột, sóc chuột hoặc chuột chũi. Điều đó nói rằng, rau, quả hạch, hạt và trái cây chiếm phần lớn trong chế độ ăn uống của chúng trong mùa đông. Vào mùa đông, chồn hôi sẽ ăn các loại trái cây như chokeberry, nho dại và nam việt quất. Các loại hạt bao gồm quả óc chó, quả hồ đào và hạt hickory, cũng như hạt hướng dương hoặc thậm chí hạt chim. Chúng cũng sẽ ăn xác thịt nếu chúng có thể tìm thấy bất kỳ thứ gì gần hang của chúng.
-
Mặc dù có khứu giác và thính giác nhạy bén nhưng chồn lại có thị lực khá kém. Chúng không thể nhìn thấy các vật cách xa mình hơn 3 mét, vì vậy, loài này dễ trở thành nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ. Tuy có tuổi thọ khi sống trong tự nhiên có thể đạt đến 7 năm nhưng hầu hết các cá thể chồn hôi chỉ sống được tới 1 năm. Những con chồn được nuôi nhốt thì có vòng đời dài hơn, khoảng 10 năm.