Nguyễn Thị Định - Nữ tướng Việt Nam
Nữ tướng Nguyễn Thị Định (người dân vẫn trìu mến gọi Cô Ba Định) - người từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh tự hào nói: “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”. Bà sinh ngày 15/2/1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, bà sớm giác ngộ và lựa chọn con đường đi theo cách mạng.
Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, Nguyễn Thị Định đảm nhận nhiệm vụ giao liên, rải truyền đơn và tham gia vận động quần chúng đấu tranh. Hai năm sau bà được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích - Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Nhưng không lâu sau đó, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Gửi con còn nhỏ cho mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia hoạt động cách mạng tại tỉnh nhà.
Năm 1940, đến lượt bà bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8/1945.
Tuy ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn là người phụ nữ đầu tiên của Đoàn cán bộ Nam Bộ vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Bà cũng là người duy nhất trong phái đoàn 4 người trở về Bến Tre với chiếc thuyền chở đầy vũ khí. Vượt qua mạng lưới bố phòng dày đặc của địch, con tàu “không số” chở 12 tấn vũ khí đã cập bến an toàn, kịp thời chi viện cho chiến trường Nam Bộ; trở thành một trong những người góp phần quan trọng cho việc hình thành “Đường Hồ Chí Minh trên biển” ngay từ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển rực rỡ sau này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bến Tre là một trong những chiến trường ác liệt, là nơi Mỹ - Ngụy thí điểm áp dụng các chiến thuật và thủ đoạn quân sự mới với chiêu bài "tố cộng, diệt cộng", đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, biến cả miền Nam thành nhà tù, trại tập trung dưới cái tên "ấp chiến lược". Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời và đến với tỉnh Bến Tre như “nắng hạn gặp mưa rào”.
Do lực lượng quân địch ở Bến Tre đông và ngoan cố, lại được sự chi viện của chính quyền bù nhìn Sài Gòn, cuộc nổi dậy bước đầu gặp rất nhiều khó khăn. Nguyễn Thị Định đã dũng cảm, mưu trí, sáng tạo ra những cách đánh phù hợp với tình hình. Quân ta thua thiệt về súng đạn, thì kết hợp thêm vũ khí thô sơ, giáo mác, gậy gộc. Khi thua thiệt về quân số thì hoạt động nghi binh, giả làm bộ đội chủ lực để gây hoang mang cho địch… Bằng sự khéo léo, tài tình, bà cùng các Tỉnh ủy viên đã lãnh đạo cuộc nổi dậy Bến Tre thành công ngoài mong đợi, tạo tiếng vang và hiệu ứng lan tỏa khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam. Khả năng lãnh đạo của bà còn được thể hiện qua việc gắn kết các tầng lớp xã hội, bà truyền lửa, tạo ra sức mạnh vô hình cho ngay cả những lực lượng vốn gọi là chân yếu, tay mềm.
Lần đầu tiên, hơn năm nghìn phụ nữ gồm cả thanh niên, bà già, trẻ em của xã Phước Hiệp, Bình Khánh, Thành Thới… họp thành một đoàn lớn, đầu đội khăn tang, mặc áo rách bồng con kéo vào quận Mỏ Cày, đòi chấm dứt khủng bố, trừng trị bọn ác ôn ở Phước Hiệp. Giằng co với địch suốt mấy ngày đêm, mỗi ngày lại có thêm lực lượng đến chi viện, khí thế của ta càng sôi sục.
Cuối cùng, tên quận trưởng đã phải chịu rút hết lính khỏi xã Phước Hiệp. Từ đây, một hình thức đấu tranh mới của Bến Tre ra đời, độc đáo và hiệu quả, khiến bè lũ quân địch khiếp sợ và gọi với cái tên “Đội quân tóc dài”.
Từ chiếc nôi Đồng Khởi, “Đội quân tóc dài” đã phát triển lan rộng toàn miền Nam. Sự ra đời của “Đội quân tóc dài” đã làm cho sức mạnh của phong trào phụ nữ miền Nam được nhân lên gấp nhiều lần. Trong đấu tranh chính trị, các chị em làm tốt công tác địch vận, vận động chồng, con, em mình bỏ ngũ, giải thích chính nghĩa cho binh lính, làm cho họ hạ súng, bỏ đồn, cao hơn là giác ngộ cách mạng, xây dựng tổ chức ngay trong lòng địch…
Từ đó, "Đội quân tóc dài" đã phát triển rộng khắp và đóng một vai trò quan trọng, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng miền Nam, kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước; làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của người Phụ nữ Việt Nam.
Sau cuộc Đồng khởi thắng lợi vang dội, bà được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1961, bà là Khu ủy viên Khu 8. Năm 1964, bà được bầu là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà được bầu là Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam. Những năm tháng chiến tranh diễn ra ác liệt ấy, rừng miền Đông vẫn thấy nữ tướng không mặc quân phục, không đeo quân hàm khi ra trận nhưng tài chỉ huy, lòng trách nhiệm, sự dũng cảm, sự thấu đáo của bà đã góp phần xoay chuyển tình hình từ bị động chuyển sang phòng ngự và chủ động tấn công. Năm 1965, bà Nguyễn Thị Định được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam, và được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đến năm 1975.