Nguyễn Thị Minh Khai - Nữ chiến sĩ cộng sản Vệt Nam đầu tiên
Bà tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh ngày 1 tháng 11 năm 1910 tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Theo trang web của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thì bà sinh ngày 01 tháng 11 (tức 30 tháng 9 âm lịch theo báo Đại đoàn kết). Cha bà là ông Nguyễn Huy Bình, người làng Mọc (Nhân Chính, Hà Nội), làm công chức hỏa xa ở Vinh, thường gọi là Hàn Bình. Mẹ là Đậu Thị Thư, quê Đức Tùng, Đức Thọ, Hà Tĩnh, làm nghề buôn bán nhỏ. Trước năm 1940, gia đình bà sống tại 132 phố Maréchal Foch (nay là phố Quang Trung), Vinh. Về sau, gia đình bà về sống ở quê mẹ là xã Đức Tùng, Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1919, bà bắt đầu học chữ Quốc ngữ rồi vào trường tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh. Năm 1927, bà tham gia hoạt động trong phong trào công nhân ở Vinh và tham gia thành lập Tân Việt Cách mạng Đảng, sau đó được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ. Năm 1930, bà gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện đảng viên tại Trường Thi, Bến Thủy. Sau đó, bà sang Hương Cảng làm thư ký cho lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở văn phòng chi nhánh Đông phương bộ của Quốc tế Cộng sản. Theo nghiên cứu của học giả Sophie Quinn-Judge, tài liệu từ văn khố của Đệ Tam Quốc tế cho thấy Nguyễn Thị Minh Khai nhận mình là vợ của Hồ Chí Minh vào thời điểm năm 1931 (sau này tại Moskva cuối năm 1934, bà cũng đã viết rằng mình đã có gia đình với "Lin", bí danh của Hồ Chí Minh vào thời điểm đó). Tuy nhiên, Sophie Quinn-Judge cũng phát biểu rằng mình "không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân thật sự hay không" vì trong các thư từ của họ thường sử dụng nhiều loại mật mã, và nói chung những người hoạt động cách mạng có thể xem là "thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường" nên khó mà biết rõ cách thức hoạt động của họ. Sophie Quinn-Judge cũng tìm ra một bức thư mà Nguyễn Thị Minh Khai viết năm 1933, trong đó bà khẳng định rằng mình không bị vướng bận bởi chuyện gia đình, và "người chồng" duy nhất của bà chính là sự nghiệp Cách mạng.
Năm 1931, bà bị bắt tại Hương Cảng, bị kết án và giam ở đây. Năm 1934, bà ra tù và được Đông phương bộ Quốc tế Cộng sản cử làm đại biểu chính thức đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Moskva cùng với Lê Hồng Phong. Theo các tiểu sử về bà ở Việt Nam thì bà thành hôn với Lê Hồng Phong vào năm 1935 tại Moskva, tuy nhiên theo bà Sophie Quinn-Judge thì không có những bằng chứng đương thời về cuộc hôn nhân này. Hai người sinh được một con gái là Lê Nguyễn Hồng Minh (sinh năm 1939). Năm 1936, bà được cử về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và được cử vào Xứ ủy Nam kỳ, giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, một trong những người lãnh đạo cao trào cách mạng 1936-1939 ở Sài Gòn. Thời gian này, bà lấy bí danh là Năm Bắc.
Ngày 30 tháng 7 năm 1940, bà bị bắt (cùng với Ủy viên Trung ương Đảng Nguyễn Hữu Tiến - tác giả cờ đỏ sao vàng) ngay sau phiên họp của Xứ ủy Nam kỳ về phổ biến chủ trương khởi nghĩa và bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Tuy nhiên, bà vẫn liên lạc với bên ngoài và vẫn tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh. Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bà bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị xử bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) ngày 28 tháng 8 năm 1941.