Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục bài 10
Một tác phẩm văn học có giá trị thực sự khi nó đã khép lại mà dư âm vẫn còn vang vọng trong lòng người đọc. Dư âm đó có thể là một chi tiết nghệ thuật, một lời thoại, hoặc một hình tượng nhân vật. Nếu như Chí Phèo của Nam Cao để lại dư âm về hình tượng nhân vật điển hình Chí Phèo thì Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân đã thực sự gây ấn tượng sâu sắc với hình tượng nhân vật Huấn Cao - một con người văn võ song toàn, tài hoa lãng mạn nhưng một đời dang dở bị giam vào chốn ngục tù chờ án chém. Điều này được thể hiện rõ ràng diễn biến thái độ của ông đối với viên quản ngục.
"Chữ người tử tù" được rút ra từ tập truyện "Vang bóng một thời" - một trong những tác phẩm viết về một thời còn vang bóng, khi chế độ thực dân Pháp đã đặt xong ách đô hộ lên nước ta, chế độ phong kiến suy tàn, nho sĩ cuối mùa trở thành những người lạc lõng. Thời buổi ấy, có những người buông xuôi theo thời thế nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời. Họ dường như cố ý lấy cái tài hoa, ngông nghênh của mình đối lập với xã hội phàm tục, phô diễn lối sống đẹp thanh cao của mình như một cách để phản ứng lại trật tự xã hội đương thời. Trong số những người tài hoa ấy, nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao trong "Chữ người tử tù".
Nguyễn Tuân đặt Huấn Cao vào hoàn cảnh đầy éo le, bi kịch nhằm bộc lộ tính cách nhân vật. Người tài hoa như Huấn Cao là một tử tù mắc tội mưu phản, bị giam vào ngục chờ ngày xử trảm. Ở đây, ông đã gặp viên quản ngục, diễn biến tâm trạng Huấn Cao trong giai đoạn đó thực sự để lại nhiều ấn tượng về nhân cách của người tử tù khí phách hơn người. Huấn Cao là một nhà nho hào kiệt dám chọc trời khuấy nước, chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang, chết chém cũng không sợ. Huấn Cao có một tinh thần gang thép bất khuất. Ngay cả khi vào trong ngục, ông vẫn giữ được phong thái khiến người ta phải kính nể. Suốt nửa tháng trong ngục, trước sự biệt đãi của viên quản ngục, Huấn Cao lấy làm lạ nhưng vẫn thản nhiên nhận rượu thịt xem như việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Nói với ngục quan bằng thái độ thách thức và tỏ ra khinh bạc đến điều mà không hề lo sợ bị trả thù. Ông không tin rằng giữa chốn bùn nhơ ấy có một bông sen trắng ngát hương, một người có tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" như viên quản ngục. Huấn Cao lúc này chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân lê bước theo chính quyền suy mạt, là tay sai của xã hội bây giờ, là kẻ thù của ông. Thái độ này của Huấn Cao đã khiến người đọc vô cùng cảm phục. Huấn Cao không cúi đầu trước cường quyền, tà lực, ghét cái ác thì ghét đến tận cùng, yêu ghét rõ ràng. Ngay cả trong hoàn cảnh giam cầm nơi ngục tù của kẻ thù vẫn không cúi đầu, không nhân nhượng. Vẻ bất cần thách thức ấy không làm mất đi vẻ đẹp hình tượng của ông mà càng tôn vinh khí phách của ông.
Để rồi sau đó, biết được tấm chân tình của ngục quan, Huấn Cao đã coi viên quản ngục như một tri kỷ. Ông thấy ân hận vì thái độ và suy nghĩ trước đó của mình, vì cách ông đối đáp lại tấm lòng của viên quản ngục. Ông ân hận vì "biết đâu một người như thầy quản lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài", vì "thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ". Huấn Cao quyết định trao cho viên quản ngục những chữ mà bình sinh chỉ "cũng mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân". Một người coi thường vàng ngọc, không vì quyền thế mà "ép mình viết bao giờ", giờ đây lại sẵn sàng viết cho viên quản ngục, âu cũng bởi cảm động tấm lòng của một người có thiên lương trong sáng.
Sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục tưởng chừng phi lý nhưng thực ra vô cùng hợp lý với diễn biến tâm trạng và tính cách của Huấn Cao. Huấn Cao là người khí phách, tài hoa hơn người nhưng ông biết trân trọng những người yêu cái đẹp, thiên lương trong sáng. Ban đầu, do hiểu lầm sự thiết đãi của viên quản ngục nên ông mới có thái độ như vậy. Sau khi hiểu được sự thật, ông cảm động và thay đổi thái độ. Huấn Cao và quản ngục gặp nhau bởi lòng yêu mến và tôn sùng cái đẹp. Con đường từ thế đối lập đến sự hòa hợp của họ là con đường trong sự tỏa hương của con chữ thiên lương.
Cảnh cho chữ chính bởi vậy trở một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nghệ thuật tương phản đối lập được sử dụng khéo léo và có hiệu quả đã làm nổi bật hơn bao giờ hết vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ, hào quang, bất tử của Huấn Cao. Một người xưa nay rất "khoảnh" trong việc cho chữ, nay lại chấp nhận cho chữ trong một khung cảnh buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián… Người cho chữ thì "cổ đeo gông, chân vướng xiềng". Chức vị xã hội không ngăn được người tử tù và viên quản ngục gặp gỡ. Ngục tù tối tăm ẩm mốc không ngăn được Huấn Cao thể hiện bản lĩnh. Họ gặp nhau giữa không gian nhà tù nhưng tâm hồn bỗng hóa tri kỷ trên khoảng trời tự do của tâm hồn và cái đẹp. Trong không nền xấu xí, u tối cái đẹp lại càng tỏa sáng rực rỡ hơn.
Có thể nói, với bút pháp xây dựng nhân vật độc đáo, Nguyễn Tuân tạo dựng thành công hình tượng Huấn Cao vừa cao ngạo, bất khuất, vừa chân tình, tài hoa, biết yêu quý nghệ thuật, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương con người. Qua diễn biến tâm lí của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã khẳng định: cái đẹp, cái thiện có thể sinh ra từ cái ác – xấu nhưng không thể sống chung với nó và cái đẹp có thể cảm hóa con người. Cái đẹp, cái thiện nhất định sẽ chiến thắng.
Huấn Cao giống như “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, nổi bật lên giữa bao hỗn tạp dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân - bậc thầy của ngôn từ vô song. Để khi tác phẩm khép lại, hình tượng Huấn Cao vẫn đọng lại mãi trong trái tim người đọc.