Top 13 Bài thơ hay nhất của Hồ Xuân Hương

Tín Mai 333663 3 Báo lỗi

Trong nền văn học Việt Nam, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt, không chỉ trong nội dung và nghệ thuật sáng tác mà ngay cả các văn bản sáng tác ... xem thêm...

  1. "Thân em vừa trắng, lại vừa tròn,
    Bảy nổi ba chìm với nước non.
    Rắn nát mặc dù tay kẻ nặn,
    Mà em vẫn giữ tấm lòng son."


    Đôi nét về bài thơ "Bánh trôi nước":


    Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương là một tác phẩm nổi bật trong kho tàng văn học cổ điển Việt Nam. Hồ Xuân Hương, một nữ thi sĩ nổi tiếng của cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, được biết đến với phong cách thơ sắc sảo và đầy chất tự sự, cùng với những hình ảnh sinh động và biểu cảm mạnh mẽ.

    Giá trị nội dung:

    • Bánh trôi nước là bài thơ có nhiều tầng ý nghĩa, với ý nghĩa tả thực là miêu tả chiếc bánh trôi nước trắng, tròn, chìm nổi
    • Bài thơ là tiếng lòng cảm thông, xót xa cho thân phận lênh đênh, chìm nổi của người phụ nữ trong xã hội cũ. Là tiếng nói trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất trong sáng, tình nghĩa, sắt son của người phụ nữ Việt Nam ngày xưa.


    Giá trị nghệ thuật:

    • Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
    • Ngôn ngữ thơ bình dị, thành ngữ, mô-típ dân gian
    • Sáng tạo trong việc xây dựng nhiều tầng ý nghĩa


    Hoàn cảnh sáng tác bài Bánh trôi nước: Là một người phụ nữ sống giữa xã hội phong kiến đầy những bất công đối với phụ nữ. Thi sĩ Hồ Xuân Hương đặc biệt thấu hiểu và đồng cảm với những nỗi đau khổ, bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu. Đồng thời, bà cũng tự ý thức được những nét đẹp và giá trị phẩm chất cao quý của người phụ nữ. Vì vậy, bà đã gói gém tất cả tâm tư, tình cảm mà viết nên tác phẩm Bánh trôi nước.

    Xuất xứ bài Bánh trôi nước:
    In trong hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập III, NXB Văn hóa Hà Nội, năm 1963

    Bánh trôi nước
    Bánh trôi nước
    Bánh trôi nước

  2. "Một lỗ xâu xâu mới cũng vừa
    Duyên em dính dán tự ngàn xưa
    Chành ra ba góc da còn thiếu
    Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
    Mát mặt anh hùng khi tắt gió
    Che đầu quân tử lúc sa mưa
    Nâng niu ướm hỏi người trong trướng:
    “Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”"


    Đại ý bài thơ: Hồ Xuân Hương, một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng nhất của văn học cổ điển Việt Nam, đã dùng hình ảnh cái quạt để truyền tải nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc trong bài thơ này. Thơ của Hồ Xuân Hương luôn có nhiều hàm ý, với bài thơ này theo tôi hiểu chung đây là bài thơ miêu tả về về đẹp của người phụ nữ. Nhưng cũng có thể theo Hồ Xuân Hương ý nghĩa trong những bài thơ này là ý khác. Hoặc bà chỉ đơn giản miêu tả cái quạt giấy gấp mà thôi…. Nếu đã không thể tìm câu trả lời chính xác từ chính chủ, thôi thì ta… đơn giản cứ tin những gì mình nghĩ, cảm nhận cái đẹp theo cách mà ta cảm nhận vậy.

    Vịnh cái quạt
    Vịnh cái quạt
    Vịnh cái quạt
  3. "Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
    Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
    Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,
    Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.

    Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.
    Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
    Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ,
    Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ."


    Ý nghĩa bài thơ có hiểu theo nghĩa đơn giản đó là: Cảnh thu tiêu sơ, ngoạn mục, tuyệt vời. Những giọt mưa rơi giữa trời không ngớt, từng giọt, từng giọt đổ xuống từ tàu lá chuối. Dù có bút thần đi chăng nữa cũng không thể nào vẽ lên được cũng không thể nào vẽ lên được cái phong cảnh có chút đượm buồn, đơn sơ ấy. Qua hai câu tiếp theo đường nét màu sắc của bức tranh có chút thay đổi. Đó là màu sắc tốt tươi, xanh tốt của cây cổ thụ với tán cây thật tròn. Đó là con sông êm ả lặng lờ trôi, phản chiếu xuống dòng sông là màu trắng của mây trời, trôi mãi.

    Sang đoạn tiếp, ý hiểu là người đã chếnh choáng say, cho dù đã có tửu lượng trong người, đã cạn hết bầu rượu bầu dốc, nhưng trước cảnh sắc của thiên nhiên vẫn muốn chấp rượu. Người say không chỉ vì say rượu mà say còn bởi vì cảnh đẹp của giang sơn.

    Cảnh thu
    Cảnh thu
    Cảnh thu
    Cảnh thu
  4. "Tiếng gà xao xác gáy trên vòm
    Oán hận trông ra khắp mọi chòm
    Mõ thảm không khua mà cũng cốc
    Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om
    Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
    Sau hận vì duyên để mõm mòm
    Tài tử văn nhân ai đó tá
    Thân này đâu đã chịu già tom."

    Đại ý bài thơ:
    Tự Tình I lại là một bài thơ hay khác nói về cảm xúc đặc biệt trong lòng cho mỗi người đọc. Nó mang những điều đặc biệt và trong những hình ảnh nói về về một đất nước thái bình, người phụ nữ không phải chịu những đau đớn và tình duyên ngang trái lỡ làng nữa. Điều đó cũng mang đậm những hình ảnh thơ và những hình tượng sâu sắc về một sắc thái nhẹ nhàng, những cảm xúc về sự phẫn uất và cả những sự đồng cảm riêng về con người. Một khát khao lớn về hạnh phúc của tác giả mà khiến ai cũng mong nhớ, khát khao có một cuộc tình ấm nồng, đầy cảm xúc hình tượng thơ dạt dào và lay chuyển tâm hồn người đọc. Ở đây hình tượng thơ của bà đã mang những nỗi nhớ miên man, sâu sắc vào cho tâm thần của mỗi con người.

    Thơ tự tình
    Thơ tự tình
    Thơ tự tình
    Thơ tự tình
  5. "Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
    Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?
    Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?
    Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?
    Đêm tối cớ sao soi gác tía?
    Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn.
    Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
    Hay có tình riêng mấy nước non?"


    Đại ý: Đó là có thể là lời tâm sự của người con gái mới biết yêu. “Hồ Xuân Hương đã yêu Nguyễn Du rồi sau đó tự vấn lòng mình:

    • *(1-2) Hỏi vầng trăng muôn thuở, Trải mấy thu nay vẫn hãy còn, những câu hỏi vu vơ, vì sao vầng trăng khi khuyết lại khi tròn.
    • *(3-4) Hỏi con bạch thố, thỏ bạch trên cung trăng được bao nhiêu tuổi; và chị Hằng Nga bây giờ đã được mấy con…
    • *(5-6) Đêm tối cớ chi soi duyên nàng đến với Nguyễn Du, con nhà quyền quý ở gác tía lầu son. Khiến cho ngày xanh gặp nhau, thẹn với mặt trời đang lên
    • *(7-8) Năm canh lơ lửng trằn trọc nhớ ai, hay đã có tình riêng với nước non.
    Vấn nguyệt
    Vấn nguyệt
    Vấn nguyệt
    Vấn nguyệt
  6. "Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,
    Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
    Người quen cõi Phật chen chân xọc,
    Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
    Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
    Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
    Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
    Rõ khéo trời già đến dở dom."

    Nội dung:
    Một bài thơ khác của Hồ Xuân Hương tuy chẳng chứa từ xuân, song nó vẫn mang đậm khí vị hội xuân: “Động Hương Tích” là một địa danh chỉ thắng cảnh trung tâm quần thể di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng cả nước. Chùa Hương ở huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, từ ngày 1-8-2008 sáp nhập vào địa bàn thành phố Hà Nội. Chùa ấy là nơi khách thập phương nô nức trẩy hội mỗi dịp xuân về.

    Động Hương tích
    Động Hương tích
    Động Hương tích
    Động Hương tích
  7. "Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,
    Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lầu.
    Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,
    Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
    Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió,
    Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,
    Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,
    Trêu nhau chi những sợi cơ cầu."


    Nội dung: Theo TS. Phạm Trọng Chánh, bài thơ này được Hồ Xuân Hương viết khi bị mẹ cậy người mai mối gả cho thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nhân có người về Hà Tĩnh. Hồ Xuân Hương gửi bài thơ này. Cũng theo ông, thì bài “Ký mộng” của Nguyễn Du là để đáp lại bài thơ này.

    Hoạ Nhân
    Hoạ Nhân
    Hoạ Nhân
    Hoạ Nhân
  8. "Khéo khéo bày trò tạo hoá công
    Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng
    Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
    Thớt dưới sương pha đượm má hồng
    Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt
    Khối tình cọ mãi với non sông
    Đá kia còn biết xuân già giặn
    Chả trách người ta lúc trẻ trung"


    Đại ý: Mùa xuân là một mùa trong năm, một sự chuyển biến theo chu kì thời gian. Qua thơ bài thơ, mùa xuân được chuyển dịch theo một quỹ đạo tâm lý. Với nữ sĩ, mùa xuân hừng hực cá tính, dồi dào sinh lực đã hiện lên chân thật cả khối tình:


    "Gan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệt
    Khối tình cọ mãi với non sông.
    Đá kia còn biết xuân già dặn"


    Chả trách người ta lúc trẻ trung. Ngắm nghía “đá ông Chồng bà Chồng”, nữ sĩ hào hứng phả tình vào đá. Và tình đá vụt hóa tình xuân. Đọc bài thơ này, Xuân Diệu phải ngợi ca rằng bà chúa thơ Nôm còn là nữ nghệ sĩ tạo hình trác tuyệt: “Một nhà điêu khắc truyền cả hơi sống, cả tình yêu vào đá, đến nỗi hòn đá cũng ửng hồng lên như có máu chạy: đá cứng lắm, nặng lắm, mà nó chẳng nằm chết như đá, nó dãn ra, nó bị cọ mài, nó già dặn tình xuân”


    Qua bài thơ nữ sĩ hiện lên chẳng những là nữ sĩ tạo hình mà còn tạo tình nữa. Vừa kỳ công và cũng vừa tuyệt thú, bà chúa thơ Nôm đã biến cảm xúc mùa xuân, cái tưởng chừng khó nắm bắt trở thành vật thể gồ ghề góc cạnh, dày dày mảng khối, tươi tắn nhiều sắc màu: Đôi lứa như in tờ giấy trắng, Dẫu nghìn năm còn mãi cái xuân xanh. Tình xuân được hữu thể hóa, Có sớm ư? Thời lại có trưa... Vậy mới phơi phới, ngây ngất và hoan lạc. Xót thương thay cho những ai, vì lý do thiên tạo hoặc nhân tạo, không được thụ hưởng hạnh phúc tốt vời của đời sống thế trần, bởi: Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu!

    Đá Ông Bà Chồng
    Đá Ông Bà Chồng
    Đá Ông Bà Chồng
    Đá Ông Bà Chồng
  9. "Một trái trăng thu chín mõm mòm,
    Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!
    Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
    Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
    Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
    Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.
    Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
    Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm."


    Đại ý bài thơ:

    • (1-2): Giới thiệu hình ảnh và màu sắc đặc biệt của vầng trăng: Vầng trăng bấy giờ là một quả trăng, chín muồi lâu rồi.Cũng là một khối tròn có cây quế đỏ, đỏ phát ớn.
    • (3-4-5-6): Những chi tiết của vầng trăng:Ở giữa mặt trăng hình chiếc bích, (tròn dẹt) nên khuôn nó chưa tròn, mà méo đi. Méo (méo:hình tròn lệch, sai đi với hình chuẩn.)Bên ngoài mặt trăng có hai cánh cung khép sâu lại.Bực mình vì người đời đua nhau xói (đâm thẳng vào), móc (dùng tay tìm kiếm hay lấy vật gì trong lỗ ra). Ở đây, xói móc, nghĩa bóng là châm chọc, bung ra những chuyện riêng tư của người khácCho nên thằng Cuội cứ đứng khom lưng.
    • (7-8): Vậy (dám nào), xin hỏi, ai đã là người đã đi bẻ quế? Ở nơi đó, có một người đẹp như Hằng Nga vẫn còn đang mong mỏi, đợi chờ.
    Hỏi Trăng
    Hỏi Trăng
    Hỏi Trăng
    Hỏi Trăng
  10. "Nghìn dặm có duyên sự cũng thành,
    Xin đừng lo lắng hết xuân xanh.
    Tấc gang tay họa thơ không dứt,
    Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
    Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện,
    Trống mang dùi cắp đã phanh phanh.
    Tuy không thả lá trôi dòng ngự,"


    Đại ý bài thơ: chĩnh chện như chễm chệ hay chễm chện: từ gợi tả dáng ngồi nghiêm trang, oai vệ. Lý do không nên lo lắng cho duyên phận lỡ làng. Luôn luôn giao lưu với những bạn thơ, cùng nhau xướng họa. Chung đụng với những nam nhân mà vẫn nguyên vẹn-Phẩm chất trong sáng của người phụ nữ.


    Điển tích hai câu thơ “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ-Vô duyên đối diện bất tương phùng”. Ngày xưa có một giai nhân con của nhà quyền quý kén chồng. Có 3 chàng đến thi tài xin cưới. Chàng học trò phải viết xong một pho sách cổ-Chàng thợ săn phải bắn rụng hết lá trên một cây ngô đồng-Chàng lực sĩ phải chạy ngàn dặm đi lấy một cái trống về. Ai xong việc trước tiên thì được cưới người đẹp. Người đẹp cứ ngỡ chỉ có chàng thợ săn (tên sẵn) hoặc chàng học trò (bút đề) sẽ đạt mục đích vì lá cây rụng gần hết, pho sách cổ cũng sắp hoàn thành, Khi ấy, bất ngờ một hồi trống vang lên-người lực sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ trước tiên. Nhắc lại cụ thể duyên nợ vợ chồng qua hai câu thơ trên. Không thư từ qua lại-Lá thắm: “Sự tích Vu Hựu, người đời Đường Hy Tông bắt được một chiếc lá đỏ từ dòng ngự câu trong cung trôi ra, trên lá có đề thơ. Hựu bèn đề một bài thơ đáp lại rồi đem lên thượng lưu thả xuống, người cung nữ là Hàn Thị bắt được. Sau đó, nhà vua thả cung nữ. Duyên may, Vu Hựu lấy Hàn Thị và nhận ra nhau qua chiếc lá đỏ. Hàn Thị làm một bài thơ có câu: “Phương tri hồng diệp thị lương môi” (Mới biết, chiếc lá thắm làm mai mối giỏi).

    Duyên Kỳ Ngộ
    Duyên Kỳ Ngộ
    Duyên Kỳ Ngộ
    Duyên Kỳ Ngộ
  11. " Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

    Trơ cái hồng nhan với nước non

    Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

    Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

    Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

    Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

    Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

    Mảnh tình san sẻ tí con con"


    Đại ý: Bài thơ sử dụng thể thơ Thất ngôn Bát cú đường luật tài tình sáng tạo ngôn từ mạnh độc đáo. Hồ Xuân Hương đã diễn tả một cách chân thực đời sống bất hạnh của người Phụ nữ Việt Nam thời xưa, đồng thời thể hiện được tài năng, bản lĩnh và sự ngang tàng của bà chúa thơ Nôm này. Tác phẩm xứng đáng đứng trong bộ thơ Nôm hay nhất nền văn học trung đại Việt Nam. Ngoài ra tác phẩm cũng thể hiện được ước nguyện cháy bỏng của tất cả phụ nữ của mọi thời đại và thể hiện sự đồng cảm đối với người phụ nữ trước nhịp chảy của thời gian và đồng thời cũng bộc lộ được niềm lạc quan và nỗi khát khao hạnh phúc cháy bỏng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa

    Tự Tình II
    Tự Tình II
    Tự Tình II
    Tự Tình II
  12. Hồ Xuân Hương (1772-1822) là một trong những nhà thơ nổi bật của văn học cổ điển Việt Nam, nổi tiếng với những bài thơ sắc sảo, châm biếm và mang đậm dấu ấn cá nhân. Bà sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hà Tĩnh, nhưng cuộc đời bà gặp nhiều khó khăn và thử thách. Hồ Xuân Hương thường được gọi là "Bà chúa thơ Nôm" vì những tác phẩm của bà chủ yếu được viết bằng chữ Nôm, thể hiện sự sáng tạo và tinh tế trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc.

    Một số bài thơ nổi tiếng của Hồ Xuân Hương bao gồm:

    • "Bánh Trôi Nước": Bài thơ này sử dụng hình ảnh cái bánh trôi nước để nói về phẩm hạnh và sự kiên định của người phụ nữ, đồng thời phản ánh sự châm biếm xã hội.
    • "Vịnh Cái Quạt": Đây là một ví dụ điển hình về việc sử dụng hình ảnh bình dị (cái quạt) để truyền tải các thông điệp sâu sắc và phê phán xã hội.
    • Đánh Đu": Bài thơ thể hiện sự hài hước và tinh tế của bà qua hình ảnh của trò chơi đánh đu, đồng thời phản ánh những suy nghĩ về tình yêu và cuộc sống.


    Ảnh Hưởng và Di Sản: Hồ Xuân Hương có ảnh hưởng sâu rộng đối với văn học Việt Nam. Những tác phẩm của bà không chỉ được yêu thích vì sự tinh tế và sáng tạo mà còn vì khả năng phản ánh sâu sắc các vấn đề xã hội và tâm tư cá nhân. Bà là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất trong văn học cổ điển Việt Nam, và tác phẩm của bà vẫn được nghiên cứu, đọc và yêu thích cho đến ngày nay.


    Hồ Xuân Hương cũng là một hình mẫu của sự độc lập và tự chủ trong thời kỳ mà xã hội còn nhiều định kiến về vai trò của phụ nữ. Bà không chỉ để lại một di sản văn học phong phú mà còn thể hiện được một tinh thần đấu tranh mạnh mẽ và không khuất phục.

  13. Phong cách thơ của Hồ Xuân Hương, một trong những nhà thơ nữ nổi bật nhất trong văn học cổ điển Việt Nam, rất đặc trưng và độc đáo. Bà sống vào thế kỷ 18-19 và để lại cho nền văn học Việt Nam một di sản phong phú với nhiều bài thơ nổi tiếng.


    Phong cách thơ của Hồ Xuân Hương có những đặc điểm nổi bật sau:


    Sắc sảo và mỉa mai:

    • Châm biếm và hài hước: Hồ Xuân Hương thường sử dụng sự châm biếm và hài hước để phản ánh những vấn đề xã hội và con người. Bà không ngần ngại chỉ trích những thói hư tật xấu và quy chuẩn xã hội thông qua lối viết tinh tế và khéo léo.
    • Ví dụ và so sánh: Bà thường dùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ để làm nổi bật ý tưởng và thông điệp của mình. Ví dụ, trong bài thơ "Vịnh Cái Quạt," bà sử dụng hình ảnh cái quạt để nói về sự kiên định và bền bỉ của người phụ nữ, mặc dù gặp nhiều khó khăn và thử thách.


    Sử dụng hình ảnh và biểu tượng độc đáo:

    • Hình ảnh thực và ảo: Hồ Xuân Hương thường sử dụng các hình ảnh cụ thể từ đời sống hàng ngày, như cái quạt, cái bếp, hay con lươn, để tạo ra các biểu tượng phong phú và đa nghĩa. Những hình ảnh này không chỉ đơn thuần là mô tả vật thể mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
    • Biểu tượng và Ẩn dụ: Bà thường dùng các biểu tượng để phản ánh những vấn đề xã hội và tâm tư cá nhân. Ví dụ, trong bài thơ "Bánh Trôi Nước," cái bánh trôi nước là biểu tượng của sự kiên định và phẩm hạnh.


    Sáng tạo trong cấu trúc thơ:

    • Lối viết tự do và sáng tạo: Hồ Xuân Hương không chỉ tuân theo các quy tắc thơ truyền thống mà còn thường xuyên phá vỡ chúng để tạo ra những cấu trúc thơ mới mẻ và độc đáo. Bà thích chơi chữ và sáng tạo trong việc sử dụng các hình thức thơ.
    • Vần điệu và nhịp điệu: Bà sử dụng vần điệu và nhịp điệu một cách linh hoạt, giúp tạo ra những âm hưởng và nhịp điệu đặc biệt cho thơ của mình. Điều này làm cho thơ của bà dễ nhớ và dễ thuộc.


    Tinh thần phản kháng và độc lập:

    • Lên án những quy chuẩn xã hội: Hồ Xuân Hương thường thể hiện tinh thần phản kháng và độc lập trong thơ của mình, đặc biệt là qua các bài thơ chỉ trích những quy chuẩn xã hội và sự bất công. Bà sử dụng thơ như một phương tiện để bày tỏ quan điểm cá nhân và chống lại những áp bức xã hội.
    • Sự độc lập cá nhân: Bài thơ của bà thường thể hiện sự độc lập và tự chủ, phản ánh cá tính mạnh mẽ và sự tự tin của tác giả, mặc dù sống trong một xã hội đầy rẫy những quy định nghiêm ngặt về phụ nữ.


    Tinh thần nhân văn và cảm xúc:

    • Nhân văn và tinh thần yêu cuộc sống: Thơ của Hồ Xuân Hương không chỉ có sự châm biếm mà còn chứa đựng một tình cảm chân thành và yêu đời. Bà thường diễn tả những cảm xúc sâu sắc về cuộc sống, tình yêu và số phận con người.


    Phong cách thơ của Hồ Xuân Hương là sự kết hợp hài hòa giữa sự sắc sảo, tinh tế, và cái nhìn sâu sắc về xã hội và cuộc sống. Những tác phẩm của bà không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn mang lại những suy ngẫm sâu sắc về bản chất của con người và xã hội.





Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy