Top 10 Cầu thủ huyền thoại của CLB Real Madrid dưới mọi thời đại

Ngọc Hyukie 49777 0 Báo lỗi

CLB Real Madrid tính đến nay họ đã có hơn một trăm năm hoạt động. Los Blancos được biết đến là đội bóng xuất sắc nhất thế kỉ 20, chính vì thế không có gì khó ... xem thêm...

  1. Iker Casillas Fernández sinh ngày 20 tháng 5 năm 1981 tại Madrid, là một cựu thủ môn người Tây Ban Nha và là một huyền thoại của câu lạc bộ Real Madrid của La Liga. Iker Casillas là thủ môn xuất sắc nhất thế giới các năm 2008, 2009, 2010, 2011, 2012 theo bình chọn của FIFPRO.


    Anh được biết đến là một trong những thủ môn xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới cũng như bóng đá đương đại. Được người hâm mộ yêu quý đặt biệt danh “thánh Iker” đã đủ nói lên được tài năng của Casilla. Những năm tháng đỉnh cao trong sự nghiệp anh được biết đến với một phản xạ xuất thần, vô vàn pha ra vào chuẩn xác cùng với khả năng chỉ huy hàng phòng ngự cực xuất sắc. 725 trận đấu đứng bảo vệ khung gỗ của Real Madrid, cùng Real Madrid giành được 5 chức vô địch La Liga, cùng 2 cúp nhà Vua, đỉnh cao là 3 Champions League cùng vô số danh hiệu, Casillas vô cùng xứng đáng là thủ môn xuất sắc nhất trong lịch sử của “Kền kền trắng”.


    Casillas ra mắt đội trẻ U-17 quốc gia ở tuổi 16, là cầu thủ trẻ nhất trong đội hình Tây Ban Nha tham dự Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới. Hai năm sau, Casillas tiếp tục giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới và Cúp UEFA Meridian. Casillas không được sử dụng tại Euro 2000. Anh được chọn vào danh sách Đội tuyển Tây Ban Nha tham dự World Cup 2002. Ban đầu là để dự bị cho Santiago Cañizares. Thật trùng hợp khi Santiago Cañizares dính chấn thương và rút lui khỏi giải đấu, Casillas trở thành thủ môn số một của Tây Ban Nha. Anh đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tiến bước của Tây Ban Nha ở Giải bóng đá vô địch thế giới 2002 khi có hai pha cứu thua hai quả penalty ở vòng 1/16 với Cộng hòa Ireland.


    Bên cạnh đó, anh cũng là nhân tố rất quan trọng giúp Tây Ban Nha mang về 3 chức vô địch Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012 cho quê hương. Anh đã được đề cử để trở thành cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu cũng như thế giới vào năm 2008. Ngày 4 tháng 8 năm 2020, Iker Casillas chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 30 năm thi đấu chuyên nghiệp.

    Iker Casillas
    Iker Casillas
    Iker Casillas
    Iker Casillas

  2. Top 2

    Chendo

    Miguel Porlán Noguera sinh ngày 12 tháng 10 năm 1961, được biết đến với nghệ danh Chendo, là một cầu thủ bóng đá đã nghỉ hưu người Tây Ban Nha chơi ở vị trí hậu vệ phải. Anh ấy đã dành toàn bộ sự nghiệp chuyên nghiệp của mình cho Real Madrid, cũng là một thành viên của đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha, anh ấy đã xuất hiện trong hai kỳ World Cup.


    Sinh ra ở Totana, Vùng Murcia, Chendo đã chơi cho Real Madrid trong mười bảy mùa giải chuyên nghiệp, giành được bảy chức vô địch La Liga (1986, 1987, 1988, 1989, 1990, 1995 và 1997), hai danh hiệu Copa del Rey (1989 và 1993), một UEFA Champions League (1998) và UEFA Cup liên tiếp (1985 và 1986).

    Anh đến Real Madrid năm mười lăm tuổi và là một phần của đội bóng cơ sở trong năm năm, có trận ra mắt chính thức cho đội một vào ngày 11 tháng 4 năm 1982 trong chiến thắng 2 - 1 trước CD Castellón. Chiến dịch tiếp theo, anh ấy sẽ góp mặt trong hai trận đấu tiếp theo. Vào đầu giai đoạn 1983 - 1984, Juan José thống trị vị trí hậu vệ phải, đá chính 5 trong 6 trận đầu tiên chấn thương ập đến khiến anh bị chấn thương, sau đó Chendo được đá chính. Khi Juan José trở lại đội một, Chendo trở lại băng ghế dự bị, nhưng kết thúc mùa giải một lần nữa với tư cách là lựa chọn số một, xuất hiện trong 26 cuộc thi nói chung.


    Nắm giữ vị trí hậu vệ phải Chendo luôn được xem như một cầu thủ không thể nào thay thế của Real Madrid trong những năm 80 - 90 của thế kỷ trước. Huyền thoại này sinh năm 1961 và có 17 năm với 497 trận đấu cho Real Madrid và giành nhiều cúp vô địch, trong đó gồm 5 cúp C1 với Los Blancos.

    Chendo
    Chendo
    Chendo
    Chendo
  3. José Antonio Camacho Alfaro sinh ngày 08 tháng sáu 1955, là một cựu người Tây Ban Nha bóng đá hậu vệ trái và quản lý. Giữ vị trí hậu vệ cánh trái Jose Antonio Camacho luôn xứng đáng được xem là cầu thủ hay nhất trong lịch sử đội bóng hoàng gia Tây Ban Nha.


    Không cần phải nói quá nhiều về Camacho, để hiểu được sự xuất sắc của vị cầu thủ mang biệt danh “người đàn ông sắt thép” chỉ cần biết rằng Roberto Carlos là người đã phải nhường chỗ cho ông trong đội hình này. Anh đã có 15 năm thi đấu chuyên nghiệp tại Real Madrid, xuất hiện trong hơn 500 trận đấu chính thức cùng đội bóng và giúp giành được 19 danh hiệu lớn, trong đó có 9 chức vô địch La Liga. Sau đó, anh ấy bắt đầu sự nghiệp huấn luyện viên kéo dài, bao gồm hai thời gian ngắn ngủi với câu lạc bộ chính của anh ấy. Camacho kiếm được hơn 80 mũ với Tây Ban Nha, đại diện cho đất nước trong hai kỳ World Cup và nhiều giải vô địch châu Âu. Ông cũng quản lý đội tuyển quốc gia trong 4 năm, đưa họ vào tứ kết World Cup 2002.


    Trong thời gian khoác áo Real Madrid, Camacho đã xuất hiện trong gần 600 trận đấu chính thức (414 trận chỉ tính riêng tại giải đấu), tạo nên mối quan hệ hợp tác ăn ý bên cánh trái với Rafael Gordillo, người chủ yếu chơi ở vị trí tiền vệ. Vào tháng 1 năm 1978, anh gặp phải một chấn thương nghiêm trọng trong quá trình luyện tập, khiến sự nghiệp của anh bị đình trệ trong gần hai năm, nhưng đã trở lại mạnh mẽ, là công cụ giúp đội bóng thủ đô giành các Cúp UEFA liên tiếp.


    Camacho chơi 81 trận cho đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha, làm cho sự xuất hiện đầu tiên của mình tại chưa 20. Tác phẩm đầu tay được tung vào ngày 05 tháng 2 năm 1975 trong một trận hòa 1-1 trước Scotland cho UEFA Euro 1976 vòng loại, trong Valencia. Trong 13 năm sau đó, Camacho là trụ cột phòng ngự cho đội tuyển quốc gia, được chọn và luôn là sự lựa chọn hàng đầu tại FIFA World Cup 1982 và 1986, cũng như Euro 1984 và 1988. Sau trận thua 0 - 2 ở vòng bảng trước Tây Đức ở trận đấu thứ hai, anh từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế ở tuổi 33.

    Jose Antonio Camacho
    Jose Antonio Camacho
    Jose Antonio Camacho
    Jose Antonio Camacho
  4. Fernando Ruiz Hierro sinh ngày 23 tháng 3 năm 1968, là một cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha hiện đã giải nghệ. Ông chủ yếu được biết đến với sự nghiệp gắn liền cùng Real Madrid và Tây Ban Nha, xuất hiện trong hơn 500 trận đấu chính thức và đại diện cho đội tuyển khi ra sần gần 90 lần trong bốn kì World Cup và hai giải vô địch châu Âu.


    Với Real Madrid, ông đã giành được 5 chiếc La Liga và 3 chiếc cúp vô địch Champions League trong vòng gần 15 năm. Trong thế giới bóng đá có những cầu thủ rất đặc biệt, sở hữu phẩm chất và cá tính mà chỉ họ mới có. Ví dụ điển hình cho mẫu cầu thủ có 1 không 2 này là Fernando Hierro, hậu vệ lừng danh một thời nổi tiếng ở khả năng săn bàn không thua gì tiền đạo.


    Fernando Hierro là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất của Real Madrid dưới mọi thời đại, một vị thủ lĩnh thực sự trên sân cỏ. Người trung vệ sinh năm 1968 đã có 127 bàn thắng cho CLB Real Madrid trong gần 15 năm gắn bó với đội chủ sân Bernabeu. Anh cũng đã giành được 5 cúp vô địch La Liga và 3 cúp Champions League cùng Real Madrid.

    Fernando Hierro
    Fernando Hierro
    Fernando Hierro
    Fernando Hierro
  5. Francisco "Paco" Gento López sinh 22 tháng 10 năm 1933 tại Guarnizo, Cantabria là một cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha. Ông bắt đầu thi đấu tại La Liga dưới màu áo Racing Santander mùa bóng 1952-53. Năm sau đó, ông đến Real Madrid và trở thành một cầu thủ huyền thoại của câu lạc bộ với số áo 11.


    Với biệt danh Galerna del Cantábrico (Cơn bão Cantabria), Gento là một tiền vệ cánh trái không chỉ có tốc độ tuyệt vời (ông có thể chạy 100 mét chỉ hơn 10 giây một chút và tốc độ dắt bóng nhanh không kém) mà còn có kĩ thuật chơi bóng tốt và khả năng ghi bàn cao với một cầu thủ ở vị trí này. Ông làm đội trưởng một đội bóng Real Madrid trẻ trung, từng thống trị bóng đá Tây Ban Nha trong thập niên 1960, được biết đến ở Tây Ban Nha với cái tên Ye-yé, bởi sự phổ thông của ban nhạc The Beatles thời gian này.

    Trong các danh hiệu Gento có được, nổi bật nhất là 6 Cúp C1 châu Âu với Real Madrid (kỉ lục chưa bị phá vỡ). Ông đã ghi 30 bàn trong 89 trận tại Cúp C1 trong suốt sự nghiệp. Ông thi đấu cho đội tuyển Tây Ban Nha từ 1955 đến 1969, thi đấu 43 trận và ghi 5 bàn thắng. Gento đã có mặt trong 8 trận chung kết Cúp C1 châu Âu (một kỉ lục khác với 6 thắng - 2 thua) (và một lần có mặt thứ 9 trong các trận chung kết Cúp châu Âu là ở Cúp C2 châu Âu mùa bóng 1970-1971, Real Madrid thua Chelsea). Chỉ có một cầu thủ khác cũng có 8 lần dự chung kết Cúp C1 như Gento là Paolo Maldini của AC Milan (với 5 thắng - 3 thua).


    Sau khi giải nghệ năm 1971, Gento quyết định trở thành huấn luyện viên. Ông từng dẫn dắt nhiều câu lạc bộ hạng thấp như Castilla, Castellón, Palencia và Granada. Cuối cùng, ông nhận vai trò đại sứ của Real Madrid ở châu Âu.

    Francisco Gento
    Francisco Gento
    Francisco Gento
    Francisco Gento
  6. Zinédine Zidane còn có biệt hiệu là Zizou, sinh ngày 23 tháng 6 năm 1972 tại Mareille, Pháp, là huấn luyện viên và là cựu danh thủ bóng đá người Pháp gốc Algeria. Zidane từng cùng đội tuyển Pháp lên ngôi vô địch World Cup lần đầu tiên năm 1998 và ngôi vô địch Euro năm 2000.


    Ở cấp CLB, ông tỏa sáng trong màu áo của Juventus và Real Madrid, giúp 2 câu lạc bộ này giành nhiều danh hiệu ở châu Âu cũng như quốc gia. Với phong cách hào hoa, nhãn quan chiến thuật và kỹ thuật cá nhân điêu luyện, ông được đông đảo các cổ động viên và chuyên gia bóng đá coi như một trong những cầu thủ xuất sắc nhất của mọi thời đại. Cùng với Ronaldo de Lima, Zidane từng là cầu thủ lập kỉ lục về số lần được trao giải Quả bóng vàng thế giới của FIFA với 3 lần vào các năm 1998, 2000 và 2003. Ông cũng là chủ nhân của danh hiệu Quả Bóng Vàng năm 1998. Năm 2001, Zidane chuyển đến Real Madrid với mức phí chuyển nhượng lập kỉ lục thế giới lên đến 76 triệu euro.


    Zidane giành được nhiều danh hiệu cao quý dành cho tập thể (gồm World Cup, Euro, Champions League, giải Vô địch quốc gia) lẫn cá nhân (Quả bóng vàng thế giới, Quả bóng vàng châu Âu, Quả bóng vàng World Cup, Cầu thủ xuất sắc nhất Euro, Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu cấp câu lạc bộ, Cầu thủ xuất sắc nhất quốc gia (tại cả Pháp, Italia và Tây Ban Nha). Ông được lựa chọn trong danh sách 100 huyền thoại sống vĩ đại nhất của bóng đá thế giới (FIFA 100) vào năm 2004. Cũng trong năm này, ông được người hâm mộ ở châu Âu bầu chọn là "Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu" trong vòng 50 năm qua thông qua một cuộc bỏ phiếu trên Internet. Năm 2011, khi trang web chính thức của UEFA là Uefa.com tổ chức bầu chọn để trao giải cầu thủ xuất sắc nhất UEFA Champions League trong 20 năm trở lại đây, Zidane đã giành được giải này. Ông nhận được nhiều phiếu bầu nhất từ các nhà báo, các cầu thủ và người hâm mộ, xếp trên Lionel Messi.


    Sau khi giã từ sân cỏ, Zidane trở lại câu lạc bộ Real Madrid để làm việc với vai trò là cố vấn cho chủ tịch câu lạc bộ. Ông từng là Giám đốc thể thao của câu lạc bộ này. Năm 2013, Zidane là trợ lý huấn luyện viên của Real Madrid vào góp phần đưa Real Madrid đến chức vô địch Champions League lần thứ 10 trong lịch sử.

    Zinedine Zidane
    Zinedine Zidane
    Zinedine Zidane
    Zinedine Zidane
  7. Alfredo di Stéfano sinh ngày 4 tháng 7 năm 1926 tại Barracas, Buenos Aires, là cố cầu thủ bóng đá kiêm huấn luyện viên người Tây Ban Nha-Colombia gốc Argentina. Tên tuổi của ông gắn bó với CLB Real Madrid, và là đối tác ăn ý trên hàng công cùng với Ferenc Puskás trong suốt thời kỳ CLB này thống trị các cúp vô địch châu Âu trong thập niên 1950, đó là thời kì mà Real Madrid dành 5 chiếc cúp vô địch châu Âu liên tiếp từ 1956.


    Di Stéfano cũng từng chơi trong màu áo 3 đội tuyển quốc gia là Argentina, Colombia và Tây Ban Nha. Ông từng 2 lần giành Quả Bóng Vàng vào các năm 1957, 1959. Ông là một trong những cầu thủ xuất sắc và vĩ đại nhất lịch sử bóng đá. Di Stéfano với biệt danh Saeta rubia (Mũi tên bạc) đã được ghi danh vào International Football Hall of Fame. Ông là một tiền đạo mạnh mẽ với thể lực tuyệt vời, sự linh hoạt trong chiến thuật và một nhãn quan sắc nhọn. Ông hiện là tay săn bàn xuất sắc thứ 3 mọi thời đại trong lịch sử giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha (hiện gọi là La Liga), với thành tích 228 bàn trong 329 trận, chỉ sau có Hugo Sánchez (234 bàn) và Telmo Zarra (251 bàn).


    Di Stéfano cũng là tay săn bàn xuất sắc nhất tại cúp nội địa trong lịch sử Real Madrid, với 216 bàn trong 285 trận ở giải nội địa từ giai đoạn 1953 đến 1964. Tháng 11 năm 2003, để chúc mừng lễ kỉ niệm 100 năm của FIFA, Di Stéfano đã được Liên đoàn bóng đá hoàng gia Tây Ban Nha chọn là cầu thủ vàng của bóng đá Tây Ban Nha, cầu thủ nổi bật nhất của bóng đá nước này 50 năm qua.


    Ông được Pelé chọn vào danh sách 125 huyền thoại sống của bóng đá thế giới tháng 3 năm 2004. Ngoài ra, ông còn đứng ở vị trí thứ 4 bên cạnh Pelé, Diego Maradona, Johan Cruijff trong cuộc bầu chọn bởi các danh thủ từng đoạt quả bóng vàng châu Âu được tổ chức bởi tạp chí bóng đá hàng tuần của Pháp France Football để chọn ra cầu thủ của thế kỉ. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 2014 tại thành phố Madrid, Tây Ban Nha vì mắc bệnh tim.

    Di Stefano
    Di Stefano
    Di Stefano
    Di Stefano
  8. Cristiano Ronaldo sinh ngày 5 tháng 2 năm 1985, là một cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Juventus tại giải vô địch Ý và là đội trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha.


    Được coi là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới và là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, Ronaldo là chủ nhân của 5 Quả bóng vàng châu Âu và cũng là chủ nhân 4 Chiếc giày vàng châu Âu, cả hai đều là kỷ lục của một cầu thủ châu Âu cùng nhiều danh hiệu cao quý khác. Anh đã giành được 32 danh hiệu trong sự nghiệp của mình, bao gồm bảy chức vô địch quốc gia, năm UEFA Champions League, một UEFA European Championship và một UEFA Nations League.


    Ronaldo đang giữ kỷ lục là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng quốc tế nhất (109, cùng với Ali Daei), cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất (134) tại UEFA Champions League và cũng là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại giải vô địch châu Âu. Anh là một trong số ít những cầu thủ đã có hơn 1.100 lần ra sân và đã ghi hơn 780 bàn thắng trong sự nghiệp cho câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia. Anh cũng là cầu thủ thứ hai ghi được 100 bàn thắng cho đội tuyển quốc gia và là cầu thủ châu Âu đầu tiên đạt được thành tích này.

    Sinh ra và lớn lên ở Madeira, Ronaldo bắt đầu sự nghiệp của mình khi thi đấu cho Sporting CP, trước khi ký hợp đồng với Manchester United vào năm 2003, ở tuổi 18. Sau khi giành chức vô địch FA Cup trong mùa giải đầu tiên, anh đã giúp Man Utd giành được ba chức vô địch Premier League liên tiếp, bên cạnh đó là hai danh hiệu UEFA Champions League và FIFA Club World Cup vào năm 2008, ở tuổi 23, anh giành được Quả bóng vàng đầu tiên của mình. Năm 2009, Ronaldo chuyển đến Real Madrid với bản hợp đồng đắt giá nhất lịch sử khi ấy trị giá 94 triệu euro (80 triệu bảng). Tại đây, anh đã giành được 15 danh hiệu, bao gồm hai danh hiệu La Liga, hai Copa del Rey và bốn danh hiệu UEFA Champions League, đồng thời trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của câu lạc bộ. Sau khi gia nhập Madrid, Ronaldo đã về nhì trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA ba lần, sau Lionel Messi - đối thủ truyền kiếp của anh - trước khi giành Quả bóng vàng liên tiếp từ 2013 - 2014 và một lần nữa từ 2016 - 2017.


    Sau khi giành chức vô địch Champions League thứ ba liên tiếp vào năm 2018, Ronaldo đã trở thành cầu thủ đầu tiên giành được danh hiệu này năm lần. Vào năm 2018, anh đến Juventus trong bản hợp đồng trị giá 100 triệu euro (88 triệu bảng), cao nhất từng được một câu lạc bộ Ý trả và cũng là mức cao nhất từng được trả cho một cầu thủ trên 30 tuổi. Anh đã giành được hai chức vô địch Serie A và một Coppa Italia trong ba mùa giải đầu tiên của mình thi đấu cho câu lạc bộ.

    Cristiano Ronaldo
    Cristiano Ronaldo
    Cristiano Ronaldo
    Cristiano Ronaldo
  9. Ferenc Puskás Biró sinh ngày 2 tháng 4 năm 1927, tên thật là Puskás Ferenc hoặc Purczeld Ferenc, là một cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Hungary. Với biệt danh "Thiếu tá siêu tốc" hay "Thiên Nga trắng", ông là cầu thủ vĩ đại nhất lịch sử bóng đá Hungary, và là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại.


    Xếp thứ 7 trong danh sách 100 cầu thủ hay nhất thế giới thế kỷ 20 của World Soccer, ông đã ghi được 84 bàn thắng trong 85 trận đấu quốc tế cho đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary cùng với 4 trận dưới màu áo đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha (không có bàn thắng) và 511 bàn thắng trong 533 trận đấu trong các giải vô địch Hungary và Tây Ban Nha. Mặc dù không có được những yếu tố cần thiết mà một tiền đạo điển hình cần có như chiều cao, khả năng tranh bóng trên không,...


    Nhưng bù lại, Puskas lại sở hữu một chiếc chân trái vô cùng khéo léo, cùng tốc độ của một chiếc phi cơ. Ông đã ghi tổng cộng 83 bàn thắng trong 84 lần khoác áo ĐTQG Hungary. Kỷ lục ấy được Puskas giữ suốt thế kỷ trước và chỉ bị phá vỡ bởi tiền đạo người Iran - Ali Daei vào năm 2003 (cầu thủ này đã ghi được 109 bàn thắng cho ĐTQG, nhưng cựu cầu thủ của Bayern Munich phải mất đến 149 trận đấu).


    Khi nói về thành công của cá nhân, Puskas đã rất khiêm tốn khi cho rằng chính những đồng đội của ông mới là ngọn nguồn giúp ông được vinh danh trong lịch sử bóng đá. Quả thực, thế hệ vàng của Hungary đã sản sinh ra những cá nhân tài năng như Zoltán Czibor, József Bozsik, Sandor Kocsis và Nándor Hidegkuti. Đặc biệt, khi hầu hết các đội bóng bấy giờ còn chơi khá hoang dại, với sơ đồ chiến thuật gồm hầu hết là tiền đạo, thì Hungary đã biết áp dụng phong cách khoa học vào lối chơi. Năm 1956, ông sang Tây Ban Nha chơi cho R.C.D. Espanyol, sau chuyển sang Real Madrid cho đến khi ông từ giã sự nghiệp cầu thủ vào năm 1967.


    Trong 11 năm thi đấu cho Real Madrid, ông đã ghi tổng cộng 512 bàn thắng trong 528 trận, 3 lần vô địch cúp C1 châu Âu...Trở thành một trong những cầu thủ xuất sắc nhất lịch sử CLB Đến năm 1961, Puskás nhập quốc tịch Tây Ban Nha và thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha. Sau khi thôi thi đấu, ông trở thành huấn luyện viên của nhiều câu lạc bộ bóng đá trong đó có cả đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary. Ngày 17 tháng 11 năm 2006, ông mất do bệnh viêm phổi tại Budapest, thọ 79 tuổi. Để tưởng nhớ ông, FIFA đã lấy tên Puskas làm phần thưởng vinh danh bàn thắng đẹp nhất trong năm. Cristiano Ronaldo là cầu thủ đầu tiên nhận danh hiệu này năm 2009.

    Ferenc Puskas
    Ferenc Puskas
    Ferenc Puskas
    Ferenc Puskas
  10. Raúl González Blanco sinh ngày 27 tháng 6 năm 1977 tại Madrid, Tây Ban Nha, thường được gọi đơn giản là Raúl, là một cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha chơi ở vị trí tiền đạo. Phần lớn sự nghiệp thi đấu của Raul là tại câu lạc bộ Tây Ban Nha Real Madrid cho đến năm 2010 và là cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất mọi thời đại của câu lạc bộ sau Cristiano Ronaldo.


    Raúl đã ba lần giành chức vô địch UEFA Champions League. Anh rời Real Madrid vào ngày 25 tháng 7 năm 2010, với thành tích 323 bàn thắng trong 740 lần được ra sân thi đấu. Raúl có một kiểu ăn mừng bàn thắng riêng biệt. Sau mỗi bàn thắng anh đều hôn lên chiếc nhẫn cưới, với ý dành tặng bàn thắng cho vợ anh, Mamen Sanz.


    Anh có sở thích đọc sách, đặc biệt là sách của Arturo Pérez Reverte, nghe các thể loại nhạc Tây Ban Nha, đi săn và xem đấu bò. Mỗi khi nhắc đến cái tên Raul Gonzalez thì người ta lại nhớ đến hình ảnh một “nhà máy” sản xuất bàn thắng số lượng lớn. Trong khoảng trên dưới 16 năm cống hiến dưới màu áo Real Madrid, Raul đã đóng góp tất cả vẻ đẹp của cuộc đời một cầu thủ cho CLB nơi anh đã có 6 chức vô địch La Liga, cùng 3 cúp bạc Champions và nhiều danh hiệu lớn nhỏ khác. Tính đến nay anh là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của “Kền kền trắng” với 323 bàn thắng trong 740 lần ra sân thi đấu.

    Raul Gonzalez
    Raul Gonzalez
    Raul Gonzalez
    Raul Gonzalez




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy