Bài văn phân tích tác phẩm "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" số 10
Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), người đờ nhớ tới tác phẩm ‘Vũ trung tùy bút’ của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoà, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối then Lê – Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn.
‘Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh’ là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong ‘Vũ trung tùy bút’ của Phạm Đình Hổ. Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào. Cảnh ăn chen xa hoà của Chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế kỉ xvIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian… đã được tác giả ‘Vũ trung tùy hút’ chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.
‘Chuyện cũ…’ đã xảy ra vào 2 năm Giáp Ngọ – Ất Mùi (1774 – 1775), đó là lúc Đàng Ngoài ‘vô sự', là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thi Huệ được Chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoà: ‘thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tủ Trầm, núi Dũng Thúy. Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên hờ Tây Hồ mỏi tháng ba bốn lấn’.
Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có ‘binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ’. Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang ‘đẩu hit khán, mặc áo dàn hà, bày hách hóa chung quanh hồ để hán’. Thuyên ngự đi tới đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ… Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công Cung đình.
Đình đài, cung điện được xây dựng ‘liên tục’ nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hồi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những ‘chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh’ nên cách kể, cách tả của ông rất sống.
Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc cuộc đời vàng son đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì ‘sức thu lấy’ trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoà cây cảnh ờ chốn dân gian ‘không thiếu một thứ gì’.
Có những cây cảnh ‘cành lá rườm rà… như cây cổ thụ mục trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng’ phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên Bắc chở qua sông đem về. Trong phủ chúa ‘điểm xuyết’ bao núi non bộ trông lạ mắt như ‘bốn bể đầu non’. Vượn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ‘ồn ào như trận mưa sa, gió táp, vỡ tổ tan đàn’. Nếu như trong 'Thượng kinh kí sự’ Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:
‘Hoà cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phù đào nguyên thuở nào’.
thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại nghĩ: ‘kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường’. Cuộc sống cực kì xa hoà ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ xảy ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh bùng nổ, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! ‘Cái triệu bất thường’ mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng phẳng, cay nghiệt:
'Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mổ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn dổi được mình Lẩu ca viện hát, tan tành còn đâu?’
(‘Văn chiêu hồn’ – Nguyễn Du)
Bọn hoạn quan trong phủ Chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: ‘Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan’. Chúng dùng thủ đoạn ‘nhờ gió bẻ’ măng, ra ngoài dọa dẫm’. Chi bằng hai chữ ‘phụng thủ’ biên ngay vào chậu hoà cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu ‘đém đến’ cho tay chân sai lính lẻn vào ‘lấy phăng di, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa dẫm lấy tiền’.
Chúng ngang ngược ‘phá nhà hủy tường’ của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được ! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là ‘giấu vật cung phụng’ để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải ‘bỏ cùa ra kêu van chí chết’, có gia đình ‘phải dập bỏ núi non bộ, hoặc phá bò cây cành để tránh khỏi tai vạ’.
Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê – Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà Cung Nhân phải sai người nhà chặt cây lê ‘cao vài mươi trượng, lúc nỏ hoà, trắng xóa thơm lừng’, hai cây lựu trắng, lựu đỏ ‘lúc ra quả trông rất đẹp’. Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực. Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ Chúa.
Trang tùy bút ‘Chuyện cũ trong phù Chúa Trịnh’ của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoà ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ Chúa.
Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.