Dân tộc Ơ Đu
Top 1 trong Top 5 Dân tộc ít người nhất nước ta
Tên tự
gọi: Ơ Ðu
Tên gọi
khác: Tày Hạt (người đói rách).
Dân số: 376 người (Tổng cục Thống kê năm 2009).
Ngôn ngữ và chữ viết: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Hầu hết người Ơ Ðu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày. Chưa có chữ viết riêng.
Nguồn gốc lịch sử: Người Ơ Đu là cư dân sống lâu đời ở miền núi thuộc tỉnh Nghệ An (vùng thượng lưu sông Cả).
Địa bàn cư trú: Cư trú chủ yếu tại huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
Tổ chức cộng đồng: Đứng đầu các bản làng già làng có vai trò quan trọng trong việc quyết định các công việc của bản làng, trong bản làng bao gồm các dòng họ khác nhau người có quyền quyết định mọi việc trong dòng họ chính là trưởng họ, xã hội của người Ơ Đu là xã hội phụ quyền. Ngoài ra, trong cộng đồng người Ơ Đu không thể không nói đến vai trò vô cùng quan trọng của các thầy mo.
Đặc điểm kinh tế: Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và một phần ruộng nước. Chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê khá phát triển. Trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày, lợn gà sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ tín ngưỡng, cúng ma... Ðan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao đổi.
Phong tục tập quán:
Ăn: Người Ơ Ðu trước đây họ ăn xôi đồ, nay có cả cơm gạo tẻ, khi mất mùa ăn củ nâu, củ mài, hoặc sắn, ngô thay cơm. Họ thích uống rượu, hút thuốc lào.
Ở: Trước đây, ngôi nhà truyền thống, nhà sàn, phải dựng quay đầu vào núi (dựng chiều dọc), thường lợp gianh, vách ván hoặc vách nứa đan. Nay kiểu nhà này không còn nữa. Họ ở sàn nhà giống như nhà sàn người Thái. Phương tiện vận chuyển: Gùi là phương tiện vận chuyển phổ biến nhất.
Hôn nhân: Người Ơ Đu sống trong gia đình nhỏ, trong hôn nhân có tục ở rể. Lễ vật cưới hỏi phải có thịt chuột sấy khô, cá ướp muối. Sau một thời gian chàng rể mới đưa vợ, con về nhà mình. Tang ma: Xưa , người chết chỉ bó chiếu đem chôn .
Tín ngưỡng: Người Ơ Đu thờ tổ tiên, cúng bản, cúng mường.
Trang phục: Hiện nay, nam và nữ đều ăn mặc theo kiểu người Thái, Việt trong vùng. Những bộ trang phục cổ truyền còn rất ít.
Văn hóa: Người Ơ Ðu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử.
Dân số: 376 người (Tổng cục Thống kê năm 2009).
Ngôn ngữ và chữ viết: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Hầu hết người Ơ Ðu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày. Chưa có chữ viết riêng.
Nguồn gốc lịch sử: Người Ơ Đu là cư dân sống lâu đời ở miền núi thuộc tỉnh Nghệ An (vùng thượng lưu sông Cả).
Địa bàn cư trú: Cư trú chủ yếu tại huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
Tổ chức cộng đồng: Đứng đầu các bản làng già làng có vai trò quan trọng trong việc quyết định các công việc của bản làng, trong bản làng bao gồm các dòng họ khác nhau người có quyền quyết định mọi việc trong dòng họ chính là trưởng họ, xã hội của người Ơ Đu là xã hội phụ quyền. Ngoài ra, trong cộng đồng người Ơ Đu không thể không nói đến vai trò vô cùng quan trọng của các thầy mo.
Đặc điểm kinh tế: Người Ơ Ðu sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy và một phần ruộng nước. Chăn nuôi trâu bò, lợn gà, dê khá phát triển. Trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày, lợn gà sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ tín ngưỡng, cúng ma... Ðan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao đổi.
Phong tục tập quán:
Ăn: Người Ơ Ðu trước đây họ ăn xôi đồ, nay có cả cơm gạo tẻ, khi mất mùa ăn củ nâu, củ mài, hoặc sắn, ngô thay cơm. Họ thích uống rượu, hút thuốc lào.
Ở: Trước đây, ngôi nhà truyền thống, nhà sàn, phải dựng quay đầu vào núi (dựng chiều dọc), thường lợp gianh, vách ván hoặc vách nứa đan. Nay kiểu nhà này không còn nữa. Họ ở sàn nhà giống như nhà sàn người Thái. Phương tiện vận chuyển: Gùi là phương tiện vận chuyển phổ biến nhất.
Hôn nhân: Người Ơ Đu sống trong gia đình nhỏ, trong hôn nhân có tục ở rể. Lễ vật cưới hỏi phải có thịt chuột sấy khô, cá ướp muối. Sau một thời gian chàng rể mới đưa vợ, con về nhà mình. Tang ma: Xưa , người chết chỉ bó chiếu đem chôn .
Tín ngưỡng: Người Ơ Đu thờ tổ tiên, cúng bản, cúng mường.
Trang phục: Hiện nay, nam và nữ đều ăn mặc theo kiểu người Thái, Việt trong vùng. Những bộ trang phục cổ truyền còn rất ít.
Văn hóa: Người Ơ Ðu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử.