Dân tộc Brâu
Top 2 trong Top 5 Dân tộc ít người nhất nước ta
Tên tự gọi: Brâu
Tên gọi
khác: Brao.
Số dân: 397 người (Tổng cục Thống kê 2009)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Nguồn gốc và lịch sử: Người Brâu chuyển cư vào Việt Nam cách đây khoảng 100 năm.
Địa bàn cư trú: Người Brâu ở Đắc Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.
Đặc điểm kinh tế: Người Brâu trồng lúa, ngô, sắn trên rẫy là chủ yếu. Săn bắt, hái lượm còn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống. Trong làng có lò rèn để tu sửa nông cụ.
Phong tục tập quán Ăn uống:
Ăn: Người Brâu ăn cơm tẻ và cơm lam, thích uống rượu cần, hút thuốc lá sợi bằng tẩu.
Ở: Người Brâu ở nhà sàn nhỏ. Các nhà xếp theo dáng hình tròn và hướng vào một nhà chung ở giữa. Nhà này là nơi sinh hoạt chung của bản.
Phương tiện vận chuyển: Vận chuyển chủ yếu bằng gùi.
Hôn nhân: Lễ cưới được tổ chức ở nhà gái, do nhà trai chi phí. Sau hôn nhân, tục ở rể kéo dài 4 - 5 năm, sau đó là thời gian luân cư của hai vợ chồng . Tang ma: Theo tập quán thổ táng, quan tài chôn nửa chìm, nửa nổi rồi dựng nhà mồ để tùy táng. Xung quanh nhà mồ được trang trí những mặt nạ bằng gỗ.
Lễ hội: Lễ ăn mừng cơm mới là lễ hội lớn nhất. Ngoài ra còn có lễ hội mừng nhà Rông mới.
Tín ngưỡng: Thờ đa thần, gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Trang phục: Nam vận khố, nữ quấn váy tấm, đeo nhiều vòng (cổ, tay, chân). Mùa hè đều ở trần, mùa lạnh khoác thêm một tấm vải.
Đời sống văn hóa: Văn chương truyền miệng có nhiều thể loại, phổ biến là huyền thoại về thần sáng tạo. Dân ca có những bài ca về đám cưới, hát ru, hát đối đáp. Nhạc cụ cổ truyền có đàn klôngpút gọi là táp đinh bổ, nhưng loại được sử dụng thường xuyên, chủ yếu vẫn là bộ chiêng đồng với ba thang âm là coong, mam và tha.
Số dân: 397 người (Tổng cục Thống kê 2009)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Nguồn gốc và lịch sử: Người Brâu chuyển cư vào Việt Nam cách đây khoảng 100 năm.
Địa bàn cư trú: Người Brâu ở Đắc Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.
Đặc điểm kinh tế: Người Brâu trồng lúa, ngô, sắn trên rẫy là chủ yếu. Săn bắt, hái lượm còn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống. Trong làng có lò rèn để tu sửa nông cụ.
Phong tục tập quán Ăn uống:
Ăn: Người Brâu ăn cơm tẻ và cơm lam, thích uống rượu cần, hút thuốc lá sợi bằng tẩu.
Ở: Người Brâu ở nhà sàn nhỏ. Các nhà xếp theo dáng hình tròn và hướng vào một nhà chung ở giữa. Nhà này là nơi sinh hoạt chung của bản.
Phương tiện vận chuyển: Vận chuyển chủ yếu bằng gùi.
Hôn nhân: Lễ cưới được tổ chức ở nhà gái, do nhà trai chi phí. Sau hôn nhân, tục ở rể kéo dài 4 - 5 năm, sau đó là thời gian luân cư của hai vợ chồng . Tang ma: Theo tập quán thổ táng, quan tài chôn nửa chìm, nửa nổi rồi dựng nhà mồ để tùy táng. Xung quanh nhà mồ được trang trí những mặt nạ bằng gỗ.
Lễ hội: Lễ ăn mừng cơm mới là lễ hội lớn nhất. Ngoài ra còn có lễ hội mừng nhà Rông mới.
Tín ngưỡng: Thờ đa thần, gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Trang phục: Nam vận khố, nữ quấn váy tấm, đeo nhiều vòng (cổ, tay, chân). Mùa hè đều ở trần, mùa lạnh khoác thêm một tấm vải.
Đời sống văn hóa: Văn chương truyền miệng có nhiều thể loại, phổ biến là huyền thoại về thần sáng tạo. Dân ca có những bài ca về đám cưới, hát ru, hát đối đáp. Nhạc cụ cổ truyền có đàn klôngpút gọi là táp đinh bổ, nhưng loại được sử dụng thường xuyên, chủ yếu vẫn là bộ chiêng đồng với ba thang âm là coong, mam và tha.