Top 12 Nhân vật vĩ đại đã kiến tạo nên nước Mỹ
Lịch sử nước Mỹ được khởi nguồn với sự xuất hiện của Christopher Columbus năm 1492. Người đàn ông này đã lập nên các thuộc địa ở Mỹ, bao gồm những người định ... xem thêm...cư từ châu Âu, những người kiếm tìm cuộc sống mới, tự do ở lục địa này. Đó là vào cuối thế kỷ thứ mười tám khi mà nước Mỹ hiện đại đã được định hình như là một quốc gia độc lập. Những người cha già có công lao to lớn này là Thomas Jefferson, Alexander Hamilton và George Washington. Hãy cùng Toplist.vn tìm hiểu đâu là những con người vĩ đại đã kiến tạo nên nước Mỹ hùng mạnh nhé!
-
Hoa tiêu, nhà thám hiểm Christopher Columbus - người đã thực hiện rất nhiều những cuộc thảm hiểm liên đại dương đến với châu Mỹ. Ông không phải người đầu tiên đến với châu Mỹ nhưng lại là người đầu tiên thiết lập sự lưu trú lâu dài tại đây. Ông đã mang những sự hiểu biết đầu tiên về châu Mỹ đến với châu Âu và từ đây đã mở đường cho dòng chảy những người thám hiểm, di cư về phía Đông để tìm kiếm cuộc sống và cơ hội mới. Lịch sử coi chuyến đi đầu tiên năm 1492 của ông có tầm quan trọng lớn, dù thực tế ông không đặt chân tới lục địa cho tới tận chuyến thám hiểm thứ ba năm 1498. Tương tự, ông không phải là nhà thám hiểm đầu tiên của châu Âu tới châu Mỹ, bởi vì đã có những ghi chép về tiếp xúc xuyên Đại Tây Dương của châu Âu trước năm 1492. Có rất nhiều bằng chứng về việc người Na Uy thời trung cổ đã đặt chân đến và thiết lập nên các thuộc địa ở châu Mỹ.
Tuy nhiên, chuyến đi của Christopher Columbus diễn ra trong thời điểm chủ nghĩa đế quốc và sự cạnh tranh kinh tế giữa các nước đang phát triển tìm cách kiếm của cải từ việc thành lập những con đường thương mại và thuộc địa đang nổi lên. Vì thế, giai đoạn trước năm 1492 được coi là giai đoạn Tiền Colombo, và thời gian diễn ra sự kiện này (Ngày Colombo) thường được kỷ niệm tại toàn thể châu Mỹ, Tây Ban Nha và Ý. Nhiều quan điểm xét lại thời hiện đại cho rằng Christopher Columbus đã ra lệnh tiến hành tội ác diệt chủng đối với người Mỹ bản địa, nhưng điều này là không chính xác về mặt lịch sử. Các nhà sử học đã không thể tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào cho thấy Christopher Columbus từng ra lệnh diệt chủng, hoặc có bất kỳ ác ý cụ thể nào đối với những người Mỹ bản địa mà ông từng gặp được.
-
Benjamin Franklin là một trong "những người cha sáng lập của Hoa Kỳ". Ông là một tác giả, chính trị gia, nhà ngoại giao, nhà khoa học và chính khách. Đặc biệt, Benjamin được nhớ đến vì có công lớn trong quá trình đẩy mạnh sự thống nhất của các thuộc địa Mỹ và là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho ý tưởng về một Hợp chúng quốc. Khẩu hiệu của ông năm 1765 là "tham gia hoặc chết", đây là một yếu tố quan trọng trong việc giúp lan truyền ý tưởng về một "Hợp chúng quốc Hoa Kỳ" mà trước đây chưa từng tồn tại. Ông từng là Bộ trưởng bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đến Pháp (1778-1785) tượng trưng cho khuôn mặt mới của Mỹ. Ông xuất thân từ tầng lớp lao động khiêm tốn để rồi trở thành biểu tượng cho sự thành công - ông là hiện thân của "Giấc Mơ Mỹ" và những giá trị tồn tại mãi về sau trong xã hội nước Mỹ.
Franklin nổi tiếng về sự ham hiểu biết của ông, về các tác phẩm của ông (có tính phổ biến, tính chính trị và khoa học) và tính đa dạng của các lĩnh vực mà ông quan tâm. Là một nhà lãnh đạo của Thời đại Khai sáng, ông đã có được sự công nhận, ủng hộ của cả các nhà khoa học và giới trí thức khắp châu Âu. Ông đã thành công trong việc bảo đảm về sự trợ giúp tài chính cũng như quân sự của Pháp, là một đóng góp to lớn cho sự thắng lợi của cách mạng chống thực dân Anh. Ông cũng là người đã phát minh ra cột chống sét. Ông là người sớm đề xướng về sự thống nhất của các thuộc địa. Các nhà sử gia gọi ông là "Người Mỹ đầu tiên".
-
Từng là Tổng tư lệnh quân đội trong chiến tranh, sau đó George Washington được bầu cử và trở thành tổng thống đầu tiên của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1788, sau đó phục vụ trong vòng tám năm. Trong nhiệm kỳ của mình, ông đã chỉ ra đâu là cách nước Mỹ nên được tổ chức, quản lí - và đó chính một trong những nền dân chủ đầu tiên trên thế giới. Trong các bài diễn văn, phát biểu của ông thể hiện rõ quan điểm duy trì sự trung lập của Mỹ trong các cuộc xung đột trên thế giới. Ông được người Mỹ coi là "Father of the Country" - Người cha già của đất nước. Chức vụ đầu tiên của Washington là Kiểm sát viên chính thức của Quận Culpeper, Virginia từ năm 1749 đến năm 1750. Sau đó, ông được huấn luyện quân sự và tham gia chỉ huy với Trung đoàn Virginia trong Chiến tranh Pháp và Ấn Độ. Sau đó, ông được bầu vào Hạ viện Virginia của Burgesses và được chỉ định là đại biểu của Quốc hội Lục địa, nơi ông được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy Quân đội Lục địa. Ông chỉ huy các lực lượng Mỹ, đồng minh với Pháp, trong thất bại và đầu hàng của quân Anh tại Cuộc vây hãm Yorktown. Ông từ chức ủy ban của mình sau Hiệp định Paris năm 1783.
Washington đóng vai trò quan trọng trong việc thông qua và phê chuẩn Hiến pháp và sau đó hai lần được bầu làm tổng thống bởi Cử tri đoàn. Ông đã tạo ra một chính phủ quốc gia mạnh mẽ, được tài trợ tốt và vẫn tỏ ra vô tư trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các thành viên nội các Thomas Jefferson và Alexander Hamilton. Trong cuộc Cách mạng Pháp, ông tuyên bố chính sách trung lập trong khi lên án Hiệp ước Jay. Ông đã đặt ra những tiền lệ lâu dài cho chức vụ tổng thống, bao gồm cả danh hiệu "Ngài Tổng thống" và Bài diễn văn chia tay của ông được nhiều người coi là một tuyên bố nổi bật về chủ nghĩa cộng hòa. Washington sở hữu nô lệ và để duy trì sự thống nhất quốc gia, ông ủng hộ các biện pháp được Quốc hội thông qua để bảo vệ chế độ nô lệ. Sau đó, ông gặp rắc rối với thể chế và giải phóng nô lệ của mình theo di chúc năm 1799. Ông cố gắng hòa nhập người Mỹ bản địa vào văn hóa Anh-Mỹ, nhưng chống lại sự phản kháng của người bản địa trong các cuộc xung đột bạo lực. -
Thomas Jefferson là một trong những American Founding Father - người cha sáng lập nước Mỹ và là tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776). Trong bản Tuyên ngôn, Jefferson đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản của nước Mỹ, trong đó kêu gọi sự bình đẳng, tự do, bắc ái. Ông là tổng thống thứ ba của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, người có công lớn trong việc mở rộng lãnh thổ nước Mỹ thông qua Tuyên bố Lousiana (1803). Ngoài ra, ông còn thành lập Đại học Vi ginia - trường đại học công lập hàng đầu Khối thịnh vượng chung Virginia và thông qua Đạo luật Virginia về tự do tín ngưỡng. Năm 23 tuổi, ông trở thành luật sư. 7 năm sau, ông thôi hành nghề với một tài sản kha khá và với mối ác cảm sâu sắc về giới luật sư, rồi sống cuộc sống của một nhà quý tộc nông thôn độc lập.
Tuy nhiên, sự quan tâm đến các vấn đề xã hội của Jefferson không cho phép ông hưởng thú ẩn dật. Ông được cử làm thành viên Viện đại biểu bang Virginia, và khi các vấn đề thuộc địa trở nên gay gắt, ông đóng vai trò tích cực ngày càng tăng trong phong trào đấu tranh giành độc lập. Những kiến nghị của Jefferson trong đoàn đại biểu Virginia với Hội nghị lục địa được công bố trong quyển sách nhỏ tựa đề "Quan điểm tóm tắt về các quyền của nước Mỹ", đã đưa ông lên vị trí của một trong những nhà lãnh đạo cách mạng hàng đầu. Ông được cử làm công tác đặc biệt ở Anh và tại Mỹ ông được các cộng sự chọn để dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776. -
John Adams là tổng thống thứ hai của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Adams đã hỗ trợ Thomas Jefferson trong việc soạn thảo ra bản Tuyên ngôn Độc lập và giúp cho bản Tuyên ngôn này được Quốc hội thông qua. John Adams là người ủng hộ mạnh mẽ cho nền độc lập và chủ nghĩa cộng hòa tại Mỹ. Trong cuộc chiến Độc Lập, ông đã đàm phán thành công Hiệp ước hòa bình với đế quốc Anh và đảm bảo các khoản vay từ phía ngân hàng Amsterdam. Ngoài ra, ông còn là tác giả của Hiến pháp Massachusetts (1780). Adams đã được bâu vào hai nhiệm kì với tư cách phó tổng thống dưới thời tổng thống George Washington và đã được bầu với tư cách tổng thống thứ hai của Hoa Kì vào năm 1796. Trong suốt nhiệm kì duy nhất của ông, Adams đã đụng độ với sự chỉ trích dữ dội Đảng Cộng hòa Jeffersonian và từ một số người trong đảng Federalist của riêng mình, được dẫn dắt bởi đối thủ Alexander Hamilton. Adams đã kí kết đạo luật gây tranh cãi The Ailen and Sedition Acts đối với những người nhập cư và xây dựng quân đội và hải quân trong cuộc chiến tranh không được công bố ‘’Cuộc chiến Quasi’’ với Pháp.
Thành tựu chính của ông trong nhiệm kì là một sự quyết định hòa bình của cuộc xung đột trước sự giận dữ của công chúng và sự phản đối của Hamilton. Trong nhiệm kì của mình ông trở thành tổng thống đầu tiên đến cư trú trong biệt thự điều hành bây giờ được gọi là Nhà Trắng. Trong nỗ lực tái tranh cử, sự chống đối từ những người Liên bang và những người buộc tội từ Đảng Cộng hóa dẫn tới thất bại của Adams đối với người bạn cũ của ông Thomas Jefferson, và ông đã nghỉ hưu ở Massachusetts. Ông cuối cùng đã bắt đầu lại tình bạn với Jefferson bằng cách khởi đầu một giao thiệp mà đã kéo dài mười bốn năm. Ông và vợ sinh ra một gia đình của nhũng chính trị gia, nhà ngoại giao và những nhà sử học bây giờ được gọi là ‘’gia đình chính trị Adams’’ mà bao gồm con trai của họ John Quincy Adams, tổng thống thứ sáu của Hoa Kì. John Adams chết ngày 4 tháng 7 năm 1826 - dịp kỉ niệm lần thứ năm mươi của việc thông qua Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ - vài giờ sau cái chết của Jefferson. Những khảo sát của các nhà sử học và học giả đã ưu tiên xếp hạng chính quyền của ông.
-
James Madison là vị tổng thống thứ tư của Hoa Kỳ (1809-1817). Chịu trách nhiệm soạn thảo Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ. Năm 1788, ông cùng với Hamilton và John Jay đã viết cuốn The Federalist Papers - Liên Bang Thư Tập với luận điểm ủng hộ mạnh mẽ cho chủ nghĩa Liên bang, là một trong những luận văn quan trọng ủng hộ Hiến pháp. Madison thừa kế trang trại Montpelier ở Virginia và cùng với hàng trăm nô lệ trong suốt cuộc đời của ông. Ông từng là thành viên của Hội đồng dân biểu Virginia và là thành viên của Quốc hội lục địa trước Hội nghị Hiến pháp. Sau Hội nghị, ông trở thành một trong những nhà lãnh đạo trong phong trào phê chuẩn Hiến pháp, cả ở Virginia và trên toàn quốc. Sự cộng tác của ông với Alexander Hamilton và John Jay đã tạo ra Các văn bản về Chủ nghĩa liên bang, một trong số các luận văn quan trọng nhất ủng hộ Hiến pháp. Quan điểm chính trị của Madison thay đổi trong suốt cuộc đời của ông.
Trong các cuộc thảo luận về Hiến pháp, ông ủng hộ một chính phủ quốc gia mạnh mẽ, nhưng sau đó ưa thích các mô hình chính phủ mạnh hơn và về cuối đời ông đã dung hòa giữa hai thái cực trên. Madison được bầu làm đại biểu Virginia lần hai và làm từ năm 1784 đến năm 1786, những năm đầu của nền độc lập. Trong những năm cuối làm đại biểu, Madison ngày càng thất vọng với những gì ông thấy là dân chủ quá đáng. Ông chỉ trích các đại biểu có xu hướng phục vụ lợi ích cụ thể cho các thành phần của họ, ngay cả khi các lợi ích đó là phá hoại nhà nước nói chung. Đặc biệt, ông gặp rắc rối bởi một đạo luật dẫn đến bị từ chối miễn trừ ngoại giao đến các đại sứ từ các nước khác, và một đạo luật hợp pháp hóa tiền giấy. Ông nghĩ rằng các nhà lập pháp nên "vô tư" và hành động vì lợi ích của nhà nước của họ tại lớn, thậm chí nếu điều này mâu thuẫn với mong muốn của cử tri. Madison tin rằng "dân chủ quá mức" là nguyên nhân của một xã hội phân rã rộng lớn mà ông và những người khác (chẳng hạn như Washington) nghĩ đã được nối lại sau cuộc cách mạng và đã gần một tipping point - Cuộc Nổi Loạn Shay là một ví dụ.
-
Abraham Lincoln là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ năm 1861-1865. Ông đã lãnh đạo đất nước đi qua cuộc nội chiến khốc liệt chống lại chế độ nô lệ phía Nam, thống nhất nước Mỹ. Trong nhiều bài phát biểu của mình, đặc biệt là ở Gettysburg, Lincoln đã đưa ra luận điểm của mình về những yếu tố cần thiết để cấu thành nên một nước Mỹ tự do, dân chủ. Sau khi chiến tranh kết thúc, Lincoln chủ trương một quan điểm ôn hòa nhằm tái thiết và nhanh chóng thống nhất đất nước thông qua chính sách hòa giải và bao dung trong một bối cảnh phân hóa đầy cay đắng với hệ quả kéo dài. Tuy nhiên, chỉ sáu ngày sau khi Tướng Robert E. Lee của Liên minh miền Nam tuyên bố đầu hàng, Lincoln bị ám sát bởi một diễn viên và là người ủng hộ Liên minh, John Wilkes Booth tại Hí viện Ford khi ông đang xem vở kịch "Our American Cousin’’. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Hoa Kỳ bị ám sát. Lincoln được cả giới học giả và công chúng xếp vào danh sách ba vị tổng thống vĩ đại nhất của nước Mỹ.
Là lãnh đạo của những người theo Đảng Cộng hòa ôn hòa, Lincoln điều hướng một loạt các phe phái gây tranh cãi với đồng minh và đối thủ của cả hai bên. Những người theo Đảng Dân chủ chống chiến tranh (được gọi là "Copperheads") đã coi thường ông, và các phần tử ủng hộ Liên minh không thể hòa giải đã âm mưu ám sát ông. Lincoln quản lý các phe phái bằng việc giải quyết sự thù địch lẫn nhau của họ, phân phối sự bảo hộ chính trị, thu hút sự chú ý của người dân Hoa Kỳ. Bài diễn văn Gettysburg của ông trở thành một lời kêu gọi lịch sử cho chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cộng hòa, quyền bình đẳng, tự do và dân chủ. Lincoln đã xem xét kỹ lưỡng các chiến lược và chiến thuật trong chiến tranh, bao gồm cả việc lựa chọn các tướng lĩnh và dùng hải quân phong tỏa thương mại ở miền Nam. Ông đình chỉ habeas corpus và ngăn cản sự can thiệp của người Anh. Ông chính thức chấm dứt chế độ nô lệ bằng Tuyên ngôn giải phóng nô lệ. Ông cũng khuyến khích các quốc gia biên giới cấm chế độ nô lệ và thúc đẩy Tu chính án thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ, cấm chế độ nô lệ trên toàn quốc.
-
Cornelius Vanderbilt được gọi không chính thức là "Commodore Vanderbilt",[2] là một ông trùm kinh doanh và nhà từ thiện người Mỹ. Ông tạo dựng sự giàu có của mình trong ngành đường sắt và vận chuyển. Sinh ra nghèo túng và có một nền giáo dục tầm thường, ông đã sử dụng sự kiên trì, trí thông minh và may mắn để tiến thân vào vị trí lãnh đạo trong việc kinh doanh đường thủy nội địa nước Mỹ, và đầu tư vào các ngành công nghiệp đường sắt đang phát triển nhanh chóng. Ông được biết đến nhiều nhất với việc xây dựng Đường sắt Trung tâm New York. Cornelius Vanderbilt là hậu duệ của những người Hà Lan di cư đến Mỹ những năm 1600. Ông sinh ra trong hoàn cảnh khiêm tốn, không quá nổi bật so với bạn bè.
Tuy nhiên chính từ xuất thân như vậy, Vanderbilt đã cố gắng, phấn đấu rất nhiều để vươn lên vị trí là một trong những người giàu có, quyền lực nhất nước Mỹ thời kỳ đó. Ông phát triển ngành đường sắt nước Mỹ lên một tầm cao mới. Có những thời điểm, hệ thống các tuyến đường sắt của ông chiếm trên 70% thị phần ngành và nối liền các tiểu bang Hoa Kỳ. Khi cả thế giới còn gặp nhiều khó khăn trong việc di chuyển giữa các vùng thì vào lúc này, nước Mỹ đã được Cornelius Vanderbilt kết nối bởi hệ thống tàu đường hiện đại. Trong cuộc nội chiến nước Mỹ, Vanderbilt đã tài trợ cho Liên minh hệ thống tàu lớn, nhanh nhất và 1 triệu đô-la. Đến những năm cuối đời, ông đầu tư 1 triệu đô-la để xây dựng đại học Vanderbilt (Vanderbilt University). Vanderbilt mất năm 1877, để lại gia tài trị giá 100 triệu đôla cho con trai.
-
Pierpont sinh ra và lớn lên tại Hartford, Connecticut (Hoa Kỳ). Pierpont theo học tại nhiều trường khác nhau do mong muốn của cha ông, Junius Spencer Morgan. Mùa thu năm 1848, Pierpont chuyển tới trường công lập Hartford, rồi tới học viện Tân giáo tại Cheshire (ngày nay gọi là học viện Cheshire). Tháng 9/1851, Pierpont trúng tuyển vào Trường trung học Boston, một trường học đặc biệt tập trung dạy toán cho các thanh niên trẻ nhằm chuẩn bị cho họ kiến thức để hoạt động trong ngành thương mại. Vào mùa xuân nằm 1852, Pierpont mắc chứng thấp khớp khiến ông gần như không đi lại được, và cha ông phải đưa ông tới Azores để chữa trị. Sau một năm điều trị, Pierpont trở lại trường Trung học Boston để tiếp tục việc học của mình. Sau khi tốt nghiệp, cha ông gửi ông tới Bellerive, một ngôi trường gần làng Vevey của người Thụy Sĩ, và sau khi thành thục Tiếng Pháp, Pierpont tiếp tục được theo học trường đại học Göttingen để học tiếng Đức. Pierpont đạt chứng chỉ tiếng Đức và bằng lịch sử nghệ thuật tại đây, trước khi chuyển tới Wiesbaden để hoàn thành việc học tập của ông
John Pierpont Morgan chính là cha đẻ của một trong những dịch vụ tài chính lớn và lâu đời nhất trên thế giới - JPMorgan Chase. Hiện nay tập đoàn này sở hữu tổng tài sản khoảng 2441 tỉ đô-la. Đây còn là hệ thống ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ. Morgan là nhân vật huyền thoại và có ảnh hưởng nhất trong thời đại của mình. Trong kỉ nguyên đó, do nước Mỹ chưa có ngân hàng Trung ương nên Morgan đã nhiều lần đứng ra, với tầm ảnh hưởng của mình cứu lấy nước Mỹ trong những cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Dưới sự lãnh đạo của Morgan, các ngân hàng lớn ở New York đóng vai trò như những ngân hàng Trung ương. Năm 1907, ông đã lãnh đạo phố Wall vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ trong lịch sử. Ông vua ngân hàng trút hơi thở cuối cùng tại một khách sạn ở Rome. Để tưởng niệm nhân vật vĩ đại này, sàn giao dịch chứng khoán New York đã đóng cửa đến buổi chiều trong ngày tổ chức đám tang ông.
-
Andrew Carnegie là doanh nhân người Mỹ gốc Scotland. Ông được mệnh danh là "Vua thép", là người giàu thứ hai trong lịch sử thế giới hiện đại, sau John D. Rockefeller. Carnegie đã xây dựng, đẩy mạnh nền công nghiệp sản xuất thép Hoa Kỳ cuối thế kỷ 19. Từ đó, những tòa nhà ở Chicago, New York thi nhau mọc lên vững chãi, vươn tới bầu trời với thép của Carnegie. Chàng thanh niên Andrew trước đây từng làm một công nhân sản xuất ống chỉ, thợ thông nhà xí, nhân viên đưa tin. Dần dần, ông leo lên vị trí một trong những người giàu có nhất đất nước, kiến tạo nên nước Mỹ thời hiện đại. Bằng việc mở công ty thép Carnegie, sau đó sát nhập với Elbert H. Gary's Federal cùng một vài công ty nhỏ khác để tạo thành U.S Steel, ông đã sở hữu một trong những công ty thép lớn nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, ông cũng thành lập rất nhiều thư viện, trường học ở Mỹ, Anh, Canada. Năm 2007, tờ Forbes đã ước tính tài sản của ông lên đến 298,3 tỉ đô-la.
Carnegie được sinh ra tại thị trấn Dunfermline, Scotland và di trú tới Hoa Kỳ năm 1848. Từ những công việc đầu tiên là công nhân sản xuất ống chỉ, thợ thông nhà xí tới nhân viên đưa tin. Cuối cùng ông mở ra công ty thép Carnegie, sau đó sáp nhập với công ty thép Elbert H. Gary's Federal và vài công ty nhỏ khác để trở thành U.S. Steel - một trong những công ty thép lớn nhất trên thế giới. Với tài sản từ việc kinh doanh thép mang lại, ông tiếp tục xây dựng nên các công ty lớn khác về tài chính và cả về hoạt động xã hội đặc biệt là trong giáo dục như Carnegie Hall, Carnegie Corporation of New York, Carnegie Endowment for International Peace, Viện Carnegie ở Washington, Đại học Carnegie Mellon và Bảo tàng Carnegie ở Pittsburgh. Carnegie dành một khoản tiền lớn để xây dựng nhiều thư viện, trường học, trường đại học ở Hoa Kỳ, Anh Quốc, Canada và những quốc gia khác và quỹ hưu trí cho cựu nhân viên về hưu.
-
John Davidson Rockefeller là nhà công nghiệp vĩ đại của Hoa Kỳ hiện đại. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng ngành công nghiệp dầu mỏ thủa sơ khai. Là cha đẻ của Standard Oil, ông làm việc cần mẫn và không từ mọi thủ đoạn rồi sau đó trở thành người giàu nhất lịch sử thế giới với tổng số tài sản lên đến 663 tỷ đô-la tương đương với tỉ giá năm 2007 (theo cách tính của Forbes). Từ một người làm thuê đào khoai tây với lương mỗi giờ là 4 xu, ông trở thành người giàu nhất trong những người giàu. Rockefeller không những để lại cho chúng ta những bài học xương máu về kinh doanh, mà còn là một tấm gương về sự phấn đấu không ngừng nghỉ, vượt qua khó khăn, nghịch cảnh để tiến lên phía trước. Trong 40 sau của cuộc đời, ông đã làm từ thiện rất nhiều cho giáo dục và sức khỏe cộng đồng. Ông dành phần lớn tài sản của mình cho công tác từ thiện.
Sự giàu có của Rockefeller tăng vọt khi dầu hỏa và xăng dầu ngày càng trở nên quan trọng, và ông trở thành người giàu nhất đất nước, kiểm soát 90% tổng lượng dầu ở Hoa Kỳ vào thời kỳ đỉnh cao. Dầu mỏ đã được sử dụng trên khắp đất nước như một nguyên liệu thắp sáng cho đến khi có điện và làm nhiên liệu sau khi phát minh ra ô tô. Rockefeller đã dành phần lớn thời gian trong 40 năm cuối của cuộc đời để nghỉ hưu tại bất động sản của mình ở Quận Westchester, New York, xác định cấu trúc của hoạt động từ thiện hiện đại, cùng với các nhà công nghiệp chủ chốt khác như ông trùm thép Andrew Carnegie. Tài sản của ông chủ yếu được sử dụng để tạo ra phương pháp tiếp cận có hệ thống hiện đại về hoạt động từ thiện có mục tiêu thông qua việc tạo ra các nền tảng có ảnh hưởng lớn đến y học, giáo dục và nghiên cứu khoa học. Các tổ chức của ông đã đi tiên phong trong phát triển nghiên cứu y học và là công cụ trong việc tiêu diệt gần như tận diệt giun móc và sốt vàng ở Mỹ.
-
Henry Ford là người sáng lập của công ty Ford Motor và là người đầu tiên áp dụng sản xuất kiểu dây chuyền lắp ráp trong sản xuất ô tô. Ông được biết đến như là một nhà sáng chế, kỹ sư, doanh nhân đã đưa nhiều cải cách vào lao động. Ông đã mang đến một cuộc cách mạng trong công nghiệp sản xuất ở Mỹ và cả Châu Âu. Thậm chí, tư tưởng của ông còn được người dân đặt là "chủ nghĩa Ford", đó là sản xuất hàng loạt, tiền lương cho công nhân cao và giá thành sản phẩm thấp. Năm 1921, xe của Ford Motor chiếm đến 55% tổng lượng xe hơi trên toàn nước Mỹ. Ông trở thành một trong những người giàu nhất thế giới. Tuy nhiên, ông lại dành phần lớn tài sản của mình để phục vụ cộng đồng, tiêu biểu đó chính là quỹ Ford. Henry Ford mất năm 1947 do xuất huyết não, hàng triệu người đã đến thăm viếng và tưởng niệm ông, người đã dạy dân Mỹ lái xe.
Henry Ford có những ý tưởng rất đặc biệt về các quan hệ với công nhân. Ngày 5 tháng 1 năm 1914 Ford tuyên bố chương trình 5 dollar một ngày của ông. Chương trình này kêu gọi giảm giờ làm từ 9 giờ xuống còn 8 giờ và nâng lương tối thiểu trên ngày từ $2.34 lên $5 cho các công nhân lành nghề. Ford coi trọng việc tăng đền bù như một hình thức chia lợi nhuận hơn là lương. Lương được trả cho người lao động trên tuổi 22, đã làm việc cho công ty sáu tháng hay hơn và một điều rất quan trọng, phải sống theo kiểu mà Ford tán thành. Công ty lập nên một Phòng xã hội học gồm 150 nhà điều tra và nhân viên phụ trợ để kiểm tra điều này. Thậm chí với những yêu cầu như vậy, một phần đông công nhân vẫn đủ tư cách được chia lợi nhuận.