Top 12 Sự thật thú vị nhất về loài chim én
Chim én thuộc họ Nhạn, là một trong những loài chim quen thuộc sống gần gũi với con người, có nguồn gốc từ châu Phi, dễ thích nghi với cuộc sống săn tìm mồi ... xem thêm...trên không, bay nhanh và là biểu tượng tốt đẹp báo hiệu mùa xuân về. Cùng Toplist tìm hiểu những sự thật thú vị về loài chim này nhé!
-
Chim én là một nhóm các loài chim dạng sẻ có danh pháp khoa học Hirundinidae. Chúng là những loài chim thích nghi với cuộc sống săn tìm mồi trên không. Én cũng được sử dụng tại châu Âu như là từ đồng nghĩa của nhạn nhà. Các tài liệu không chuyên ngành điểu học (chủ yếu là văn chương) dùng từ yến để chỉ các loài trong họ này.
Chim én thuộc họ Nhạn, là một trong những loài chim quen thuộc sống gần gũi với con người, có nguồn gốc từ châu Phi, dễ thích nghi với cuộc sống săn tìm mồi trên không, bay nhanh và là biểu tượng tốt đẹp báo hiệu mùa xuân về.
- Tên thường gọi: chim én
- Tên tiếng Anh: Marketing
- Tên khoa học: Hirundinidae
- Nguồn gốc: châu Phi
- Đặc tính: Làm tổ trong hang
- Ngành: Động vật có dây sống
- Lớp: Chim
- Bộ: Sẻ
- Họ: Nhạn
- Cân nặng: 40 – 184 g
- Kích thước: 10 – 24 cm
-
Chim én sống chủ yếu trong hang, ở vùng núi hoặc vùng khô; chúng sớm thích nghi với đặc tính săn mồi trên không tại các vùng nông thôn thưa thớt cây cối, ít dân cư hay các khu vực gần mặt nước.
Các loài én thường làm tổ bằng bùn gần với phía trên nơi trú ẩn tại các vị trí được bảo vệ tốt trước các thay đổi của thời tiết cũng như trước những động vật ăn thịt. Nhiều loài cư trú trong hang và vách núi làm tổ thành các bầy lớn. Các loài sống thành bầy lớn thường phải tranh đấu với cả vật ký sinh ngoài lẫn sự ký sinh tổ đồng loài. Những con trống già hưởng lợi nhiều nhất từ tập tính bầy đàn, do chúng có thể duy trì các tổ của chính chúng và hưởng lợi từ những cuộc giao phối ngoài cặp đôi thường xuyên xảy ra.Én/nhạn được coi là loài chim có ích do chúng ăn các loại côn trùng, sâu có hại cho mùa màng, đồng thời én cũng là biểu tượng báo hiệu mùa xuân về hoặc dấu hiệu tốt lành nếu én làm tổ trong khuôn viên nhà. Tuy nhiên hiện én đang bị đe dọa tiêu diệt tại nhiều địa phương tại Việt Nam do hành vi bẫy bắt và ăn thịt. Đây là việc đáng lên án và cần chấm dứt.
-
Lông én thường có màu xanh dương, đôi khi hơi ngả sang màu đen (lam sẫm) hoặc màu lục bóng ở phần trên, sọc ở phần dưới thường màu trắng.
Tiếng hót của loài chim này thường trong trẻo và líu lo. Chúng chính là một ca sĩ thiên tài khi có thể biến tấu giọng hót của mình thành các âm độ khác nhau cho nhiều mục đích khác nhau.
Tiếng hót ngân nga và bay bỏng để thu hút bạn tình hay để liên lạc với đàn. Tiếng hót dồn dập và âm độ mạnh thể hiện sự kích động khi báo hiệu có kẻ thù đến lãnh thổ của bầy đàn. Hoặc tiếng hót “ren rỉ” của những chú én non đòi được ăn.
-
Các loài chim én đã thích nghi với cuộc sống săn bắt sâu bọ khi đang bay nhờ phát triển một thân hình thuôn và thanh mảnh với các cánh dài và nhọn đầu cánh, cho phép chúng có sự linh hoạt và sự chịu đựng lớn.
Chim én có thân hình bé nhỏ, cơ thể thấp lùn nhưng chắc mập với mỏ ngắn, mềm; quai hàm khỏe, miệng rộng
Các cánh dài, hẹp và nhọn đầu với 9 lông bay chính. Đuôi dài, xẻ thùy sâu, hơi lõm xuống hoặc hơi vuông có hình chạc với 12 lông chính. Con mái có đuôi dài hơn con trống.Chân ngắn, dùng vào việc đậu trên cành hay dây điện, ít khi dùng để đi. Lông có màu lam sẫm hay lục bóng ở phần trên, đơn giản hay có sọc ở phần dưới, thường có màu trắng hay hung. Lông đuôi dài, độ dài của lông đuôi lớp ngoài dài hơn.
Một chim én trưởng thành có chiều dài cơ thể vào khoảng 10 – 24 cm và nặng khoảng 40 – 184 g. Chim non mới nở không có lông và mắt vẫn nhắm. Những chim non đã đủ lông thường giống như là phiên bản xám xịt hơn của chim trưởng thành.
-
Chim én là những loài chim bay giỏi và chúng thường sử dụng những kỹ năng bay lượn này để hấp dẫn bạn tình cũng như để bảo vệ lãnh thổ. Nói chung, những con trống sẽ chọn nơi làm tổ và sau đó thu hút con mái bằng tiếng hót và kiểu cách bay lượn, đồng thời là vệ sĩ bảo vệ lãnh thổ của chúng. Kích thước lãnh thổ phụ thuộc vào từng loài; ở các loài sống thành bầy đàn thì lãnh thổ có xu hướng nhỏ, nhưng nó cũng có thể lớn hơn nhiều so với lãnh thổ của các loài sống đơn độc.
Chim én dành phần lớn thời gian sống của mình để bay lượn trên bầu trời trong điều kiện cuộc sống bầy đàn hoặc riêng lẻ đơn độc tùy ý; còn lại, chim én chỉ đáp đất khi chúng đến mùa sinh nở.
Sắp đến mùa lạnh, những con chim én sẽ lặng lẽ rời khỏi nơi cư trú của mình để tránh rét, và sẽ rủ nhau quay trở lại chính nơi này vào mùa xuân; tuy nhiên, chúng ít khi bay theo đàn.
Chim én chung thủy, chúng lựa chọn bạn đời theo kiểu”một vợ một chồng”, thường sống cạnh khu vực sinh sản khi không di cú, và quay trở về chính nơi này sau đó để làm tổ mới và sinh sản.
-
Các cặp bạn đời là dạng một vợ một chồng, và các cặp của các loài không di trú thường sống cạnh khu vực sinh sản của chúng quanh năm, mặc dù khu vực làm tổ phụ thuộc nhiều vào mùa sinh sản. Các loài di trú mỗi năm thường trở về cùng một khu vực sinh sản và có thể chọn cùng một khu vực làm tổ nếu như trước đó chúng đã thành công tại vị trí đó. Những cặp chim sinh đẻ lần đầu nói chung chọn khu vực làm tổ gần với nơi chúng sinh ra và lớn lên.
Chim én thường làm tổ trong hang, trong các tòa nhà cũ, tòa tháp hay những công trình do con người tạo ra. Tổ của chúng thường được làm bằng bùn, sình, đất sét hay cây cỏ. Vào mùa sinh sản, những con trống sẽ chọn nơi làm tổ và dùng tiếng hót cũng như kiểu cách bay lượn đặc biệt của mình để thu hút bạn tình.
Chim én cái đẻ trứng và chỉ đẻ khoảng 1-6 quả/ lần. Trứng chim én có màu trắng, thường sẽ nở sau 19 – 23 ngày ấp. Những con non mới nở sẽ không có lông và mắt của chúng luôn nhắm chặt.
Lúc này, cả chim én bố và chim én mẹ đều cùng nhau chăm sóc con non; chúng sẽ tha những quả bóng thức ăn gồm 300 – 1.000 con côn trùng về và bón cho con. Chim non sẽ đủ lông và rời tổ sau 6 – 10 tuần tuổi; khi bay đi, chúng sẽ không bao giờ quay trở lại nữa.
-
Chim én thích nghi với cuộc sống lượn lờ và săn mồi trên không tại những khu thưa dân cư và cây cối, hoặc sẽ lượn trên mặt nước.
Ăn côn trùng nhỏ như ruồi, muỗi, sâu, rệp, bọ cánh cứng, châu chấu, nhện,…khi đang bay dạo lượn lờ, hoặc đậu trên mặt đất và cành cây để săn côn trùng. Chúng chính là những hiệp sĩ bảo vệ mùa màng khỏi bọn sâu bọ phá phách cho dân làng.
Vì thế, đối với những người nông dân, việc chim én làm tổ trong khuôn viên nhà chính là một dấu hiệu tốt lành, cũng chính là dấu hiệu tươi mới của mùa xuân đang đến. Nhưng thật đáng chê trách trước hành vi săn bắn, bẫy lồng én để ăn thịt tại một vài vùng miền Việt Nam, làm số lượng chim giảm mạnh.
Đây là một hành vi cần phải được ngăn chặn và sửa đổi ngay.
-
Chim én và chim yến, đây là 2 loài chim có rất nhiều tương đồng. Điều này khiến cho rất nhiều người nhầm lẫn giữa 2 loại chim này.
Dưới đây là 1 vài điểm khác biệt giữa 2 loài chim này:
Đặc điểm hình dáng:
- Chim én:
- Nhìn bề ngoài, các bạn có thể thấy bộ lông của chúng có màu đen hoặc màu xanh đen óng ánh. Mỏ của chim én thường to hơn mỏ của chim yến.
- Chân của chim én nhỏ nhưng rất chắc khỏe. Chân của chim én thường có 3 ngón nhỏ trước và 1 ngón nhỏ sau – điều này giúp chúng có thể bám chặt hơn.
- Chim én bay thấp hơn so với chim yến. Chim én thường có phần đuôi thường chẻ sâu.
- Chim yến:
- Nhìn vào hình dáng, có thể thấy màu lông của chim yến thường có màu đen đậm, mỏ của chúng nhỏ hơn rất nhiều so với chim én.
- Chim yến có phần chân khá yếu, chúng không thể đậu và bám chắc vào các vật thể. Chúng có khả năng vừa bay và vừa bắt con mồi một cách dễ dàng.
Môi trường sống:
- Chim én: tổ của chim én thường được tạo ra từ bùn đất và cỏ cây. Tổ của chim én rất giống với các loài chim thông thường.
- Chim yến: tổ của chim yến thường được làm từ rêu, các loại cỏ, lông của chúng…. tất cả các nguyên liệu được gắn kết với bằng nước dãi của yến.
- Chim én:
-
Với đặc tính dành phần lớn thời gian để sống và bay lượn trên bầu trời, én là loài chim thích nghi với cuộc sống săn tìm mồi trên không. Thức ăn của chúng là các loài rệp, bọ cánh cứng, ruồi, muỗi, nhện và các loại sâu bọ phá hoại. Vì vậy chúng được xem là các loài thiên địch rất có lợi cho con người, giúp bảo vệ mùa màng, hạn chế sâu và cá loại dịch bệnh.
Vì vậy cũng như chim yến, chim én không thích hợp với môi trường nuôi nhốt. Chúng hợp với không gian thoáng đạt và chỉ săn mồi trong lúc bay. Hơn nữa, én là loài chim di cư nên chúng buộc phải sống trong môi trường tự nhiên để sẵn sàng thay đổi điều kiện sống mỗi khi có những sự thay đổi về khí hậu, nhiệt độ.
Hiện nay số lượng loài chim én đang bị ảnh hưởng. Kẻ thù của chúng là chim ưng, chim cắt, một số loài cú. Tuy nhiên kẻ thù nguy hiểm và có sức tận diệt nhất chính là con người. Rất nhiều người săn bắt chim để bán như một món đặc sản.
Không ít những lồng chim én, chim trời được con người rao bán với số tiền khá rẻ mạt, nhưng hậu quả của hành động này hết sức khủng khiếp.
Chim én suy giảm số lượng làm mất cân bằng sinh thái, mất đi một lượng lớn thiên địch tự nhiên có thể làm bùng phát sâu bệnh, phá hủy mùa màng, ảnh hưởng tới mọi mặt của sản xuất nông nghiệp. Con người sẽ càng phải sử dụng thuốc hóa học nhiều hơn, vì vậy môi trường ngày càng bị ô nhiễm và tàn phá nghiêm trọng.
-
Chim én sống và làm tổ chính ở các nước phía Bắc bán cầu, xuất hiện ở nước ta nhiều nhất tại Cao Bằng, Lạng Sơn. Mỗi năm, khi thời tiết dần chuyển lạnh, chúng sẽ di cư xuống phía Nam bán cầu cho đến tận châu Úc, để khi mùa xuân đến sẽ quay về nhà tại phía Bắc.
Mỗi năm, chúng có thể bay đường dài 199 558 km. Trung bình, một con trưởng thành có thể bay tổng cộng đến 4,5 triệu km. Đó là một cuộc hành trình dài và rất khắc nghiệt dưới các vùng khí hậu bất thường khi di chuyển từ châu Phi đến châu Âu, gió lạnh khắc nghiệt và những vùng đất thiếu lương thực đã giết chết hàng ngàn con.
Hàng ngàn con chim én khác vẫn có thể sống xót, chúng có thể dừng bay và đi tản bộ ở mặt đất để tìm thức ăn và phục hồi sức lực cho chặn đường tiếp theo.
Có những loài sẽ di trú, nếu chúng không di trú thì sẽ sống tại tổ của mình quanh năm. Còn những loài sau cuộc di trú, sẽ quay về chính khu vực chúng đã làm tổ trước đây (Khu vực sinh sản thành công nhất mà én đã chọn trước đó). Chúng có xu hướng chọn tổ mới ở gần nơi chúng được sinh ra và lớn lên.
-
Mỗi năm, chim én sẽ có hai lần xuất hiện nhiều nhất đó là khi chúng di cư đi vào mùa đông, và cứ mỗi độ xuân về, chúng lại quay trở về. Vì thế, mỗi khi thấy đàn chim én chao liệng trên bầu trời cũng là báo hiệu cho mùa xuân đến.
Từ xa xưa, chim én đã trở thành thành loài vật mang biểu tượng cho mùa xuân, cho may mắn và ấm no trong tâm trí mọi người, cho mùa màng bội thu. Chúng là một nguồn ngẫu hứng sáng tạo cho các nhà thơ, nhà văn trong mọi thời đại, mang đến sự bình yên trong tâm hồn cho mọi nhà.
-
Một số thông tin thú vị khác về chim én:
- Chim én nói riêng và họ nhạn nói chung có thói quen chọn bạn tình thông qua chiều dài của đuôi. Chúng có thể ăn, uống, ngủ, thậm chí giao phối trên không trung.
- Chim én được mệnh danh là loài chim bay nhanh nhất thế giới với tốc độ bay cực đại (khi không mang theo con mồi) đạt khoảng 113 – 185 km/h. Đặc biệt, loài chim này vào mùa xuân thường bay nhanh hơn gấp từ 2 – 6 lần so với mùa thu.
- Trung bình trong đời, một con chim én trưởng thành bay tổng cộng khoảng 4,5 triệu km, tương đương với 6 chuyến đi lên Mặt Trăng hoặc 100 vòng quanh Trái Đất rồi quay trở lại.
- …