Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếu cầu hiền" số 10
Với thể loại chiếu nếu như ở chương tình Ngữ văn lớp 8 ta được biết đến với tác phẩm “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn thì sang lớp 11 tìm hiểu tác phẩm cùng thể loại là “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm. Ông đã từng làm quan dưới triều Lê- Trịnh, sau phục vụ cho triều đại Tây Sơn có nhiều đóng góp và được trọng dụng.
Ông được vua Quang Trung giao nhiệm vụ viết bài “Chiếu cầu hiền” trong hoàn cảnh triều đại mới được gây dựng, đất nước gặp nhiều khó khăn, người tài còn vắng bóng với mục đích nhằm động viên sĩ phu Bắc Hà và những người hiền tài ra phò vua giúp nước. Văn kiện thể hiện chủ trương đúng đắn và tầm nhìn ra trông rộng của một vị vua anh minh, lỗi lạc.
Chiếu là văn kiện chính trị thuộc loại văn học chức năng, còn có tên gọi khác là “Chiếu thư”, “Chiếu chí”, “Chiếu bản”. Đó là văn cáo mà thiên tử hạ đạt mệnh lệnh xuống cho thần thuộc. Dù là trực tiếp nhà vua viết hay do người khác vâng theo mệnh lệnh mà viết thì cũng đều phải thể hiện được tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng lâu dài đến vận mệnh của đất nước.
Theo như lời khuyên của chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho các nhà báo: “Trước khi cầm bút mỗi người cần trả lời ba câu hỏi: Ta viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?” Chỉ với mười hai từ ngắn gọn đã thâu tóm được quan điểm và nội dung của bài viết. Đối với bài văn nghị luận sâu sắc như “Chiếu cầu hiền”, khi phân tích tôi chọn cho mình điểm nhìn đứng ở vị thế của người viết. Chúng ta giải đáp từng câu hỏi để làm sáng tỏ cái hay cái đẹp của tác phẩm.
Trước tiên “Ta viết cho ai?” tức đối tượng bài chiếu hướng đến là ai? Trước tình hình chúa Trịnh ngày càng lộng quyền lấn át vua Lê, Nguyễn Huệ đã thần tốc kéo quân ra Bắc “Phù Lê diệt Trịnh”, thừa thắng đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược, thù trong giặc ngoài được loại bỏ, thống nhất non sông về một mối, lập nên triều đại mới - triều đại Tây Sơn của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Một số người với quan niệm bảo thủ không nhận thấy chính nghĩa và sứ mệnh của vị vua mới đã có thái độ bất hợp tác, thậm chí nổi dậy chống lại triều đình Tây Sơn. Nhà vua đã cho viết bài chiếu trước là để thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà có thái độ đúng đắn, hiểu được vận mệnh dân tộc và mở rộng ra là hiền tài còn ẩn mình hãy đem tài năng ra giúp nước. Chính sách chiêu hiền không giới hạn phạm vi đối tượng “các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng thứ dân trăm họ” tất cả mọi người ai cũng có quyền, có trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Viết để làm gì? Đúng như tên nhan đề là cầu hiền và cũng như phân tích ở trên để chiêu mộ nhân tài_những con người vừa có đức vừa có tài có tâm ra phụng sự cho dân cho nước. Mục đích ấy cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Huệ và vai trò to lớn của người hiền tài đối với vận mệnh của dân tộc.
Tư tưởng đó đã được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa qua lời dạy nhi đồng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Bởi các em chính là thế hệ tương lai của đất nước, nắm trong tay vận mệnh dân tộc Việt. Ngày nay chủ trương chiêu mộ nhân tài luôn luôn được chính quyền Trung ương Đảng đề ra và thực hiện bằng các chính sách cụ thể thiết thực về “Đào tạo nhân tài và bồi dưỡng nhân lực”.
Sau khi xác định rõ được đối tượng và mục đích điều quan trọng là phải viết như thế nào để thể hiện được mong muốn của tác giả. Ngô Thì Nhậm là người dùi mài kinh sử học rộng tài cao nên ông am hiểu tâm lí của các sĩ phu. Bởi theo quan niệm chính thống của tầng lớp Nho sĩ người xuất thân từ dòng dõi đế vương hoặc quý tộc mới xứng nối nghiệp tiên vương, mới có khả năng làm Thiên tử. Nguyễn Huệ lại xuất thân là nông dân nên ít nhiều Nho sĩ Bắc Hà không những không phục mà con tỏ vẻ khinh miệt, coi thường.
Ông nắm được suy nghĩ ấy nên mở đầu tác phẩm đã dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử thuyết phục đối với Nho sĩ Bắc Hà. Ông chỉ ra quy luật xuất xử của các bậc hiền tài: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”.
Tác giả chỉ ra quy luật của vũ trụ “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần” để khẳng định người hiền tài phải phụng sự cho dân cho nước, phải có trách nhiệm với vận mệnh dân tộc mà trước tiên là “làm sứ giả cho thiên tử” tức phục vụ cho vua là lẽ tất yếu. Nếu làm trái là không theo ý trời. Hình ảnh so sánh rất tiêu biểu, cụ thể phù hợp với tâm lí của những con người xuất thân nơi “Cửa Khổng sân Trình”.
Tiếp đó tác giả nói đến tình cảm của kẻ sĩ dành cho triều đại mới bấy giờ: một số người tài đức thì “ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời”, những người tinh anh thì sợ hãi im lặng “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc nửa chừng thì bỏ dở “gõ mõ canh cửa” hay người bị chết đuối trên cạn, thậm chí có cả những người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê_cái tôi trung thành đến mù quáng.
Tác giả không nói thẳng mà dùng lối nói hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng vừa đả kích nhẹ nhàng, vừa tế nhị sâu kín lại tỏ ra là người có học thức uyên thâm, hiểu biết sâu rộng, có tài văn chương khiến cho người nghe không những không chạnh lòng, tự ái mà hiểu ra vấn đề, tự cười tự trách bản thân mình vì có thái độ chưa đúng đắn.