Top 10 Bài thơ hay nhất của nhà thơ Vương Duy
Vương Duy, biểu tự Ma Cật, hiệu Ma Cật cư sĩ, là một nhà thơ, một họa sĩ, một nhạc sĩ, một nhà viết thư pháp và một chính khách nổi tiếng đời Thịnh Đường. Ông ... xem thêm...là người tinh thông về Phật học và theo trường phái Thiền tông. Trong Phật giáo có Duy Ma Cật kinh, là kinh sách do Duy-ma-cật dùng để giảng dạy cho môn sinh. Dưới đây là các bài thơ hay nhất của ông.
-
Tương tư
Hồng đậu sinh nam quốc,
Xuân lai phát kỷ chi.
Nguyện quân đa thái hiệt,
Thử vật tối tương ti (tư).Dịch nghĩa
Đậu đỏ sinh ở phương nam,
Mùa xuân đến, nẩy bao nhiêu cành.
Xin chàng hãy hái cho nhiều,
Vật ấy rất gợi tình tương tư.Hồng đậu có hột hình tròn, màu sắc tươi hồng, hình dạng đáng yêu, thường làm trang sức trên mái tóc phụ nữ. Người xưa lấy cây này biểu tượng cho tình yêu nên mới có tên là cây “tương tư”.
-
Hoàng Phủ Nhạc Vân Khê tạp đề kỳ 1 - Điểu minh giản
Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh xuân giản trung.Dịch nghĩa:
Người nhàn nhã, hoa quế rụng
Đêm thanh tĩnh, ngọn núi mùa xuân yên
Trăng nhô lên làm kinh động loài chim núi
Ở trong khe núi xuân, hót vang lên.Hoàng Phủ Nhạc thân thế không rõ. Vân Khê là địa danh, nơi ở của Hoàng Phủ Nhạc.
Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Ngữ văn 10 giai đoạn từ 2007.
-
Tống biệt (Há mã ẩm quân tửu)
Há mã ẩm quân tửu,
Vấn quân hà sở chi?
Quân ngôn bất đắc ý:
Quy ngoạ Nam Sơn thuỳ.
Đãn khứ mạc phục vấn,
Bạch vân vô tận thì!Dịch nghĩa
Xuống ngựa uống chén rượu tiễn bạn
Hỏi bạn đi về đâu
Bạn nói rằng không được vừa ý
Về nhà ở mé Chung Nam sơn ngủ quên đời
Thôi thì bạn cứ đi tôi chẳng hỏi nữa
Mây trắng bay mãi không bao giờ hếtBài thơ này làm khi đưa Mạnh Hạo Nhiên lên đường về ẩn cư ở núi Chung Nam.
-
Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ
Độc tại dị hương vi dị khách,
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ,
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân.Dịch nghĩa
Một mình ở nơi đất lạ làm khách lạ,
Mỗi khi tới ngày tiết đẹp lại nhớ người thân bội phần.
Từ nơi xa này vẫn biết rằng anh em lên nơi cao,
Đều cắm cánh thù du nhưng thiếu mất mội người.(Năm 717)
-
Vị Thành khúc - Tống Nguyên nhị sứ An Tây
Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.Dịch nghĩa:
Tại Vị Thành, mưa ban sáng làm ướt đám bụi mỏng
Quán khách có liễu màu sắc mới mẻ xanh tươi
Xin anh hãy uống cạn chén rượu
Ra khỏi Dương Quan về phía tây e không còn có bạn nữaVị Thành nay ở phía tây bắc An Huy, tỉnh Thiểm Tây, xưa là thành Hàm Dương của nước Tần.
-
Đãi Trừ Quang Hy bất chí
Trùng môn triêu dĩ khải,
Khởi toạ thính xa thanh.
Yếu dục văn thanh bội,
Phương tương xuất hộ nghinh.
Vãn chung minh thượng uyển,
Sơ vũ quá xuân thành.
Liễu tự bất tương cố,
Lâm đường không phục tình.Dịch nghĩa
Sáng sớm lớp cửa sâu đã mở ra,
Ngồi dậy lắng nghe chờ tiếng xe đến.
Tưởng như nghe thấy tiếng ngọc bội vang lanh lảnh,
Đang định ra cửa đón tiếp.
Tiếng chuông chiều đã vang lên trong vườn thượng uyển,
Cơn mưa bụi đã lướt qua thành xuân.
Ta hiểu rằng người sẽ không đến,
Nhưng vẫn đứng trong sân nhà bồi hồi nhớ mong.Trừ Quang Hy là bạn của Vương Duy, đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 14 thời Đường Huyền Tông, cùng với Vương Duy là thi nhân tiêu biểu của phái điền viên sông núi thời Đường.
-
Thiếu niên hành kỳ 4
Hán gia quân thần hoan yến chung,
Cao nghị Vân Đài luận chiến công.
Thiên tử lâm hiên tứ hầu ấn,
Tướng quân bội xuất Minh Quang cung.Bản dịch của Trần Đông Phong:
Hán đế vua tôi vui tiệc kết
Đài Mây bàn bạc luận công lao
Thiết triều thiên tử ban hầu tước
Đeo ấn tướng quân rời điện vua.