Top 7 Bài văn phân tích bài thơ Thuật hứng 24 của Nguyễn Trãi (Ngữ văn 10) hay nhất

Thai Ha 13468 0 Báo lỗi

Nguyễn Trãi là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Bài viết dưới đây hãy cùng Toplist tham khảo về các bài văn phân tích bài thơ ... xem thêm...

  1. Nguyễn Trãi là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Ông đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Các tác phẩm của ông thể hiện tư tưởng nhân nghĩa nỗi niềm bâng khuâng, trăn trở về thế thái nhân tình. Không thể không kể đến bài thơ “Thuật hứng” trích “Quốc âm thi tập”.


    Nguyễn Trãi quả thật là bậc anh hùng tái thế, văn võ song toàn. Có lẽ bởi vậy mà ngay từ câu thơ đầu, ông đã ngầm khẳng định điều đó “công danh đã được”.


    Công danh đã được hợp về nhàn,

    Lành dữ ân chi thế nghị khen


    Nhưng trớ trêu thay người hiền tài luôn bị những kẻ tiểu nhân dòm ngó, hãm hại. Ông bị bọn gian thần bày mưu tính kế chèn ép mà người liêm khiết như ông thà chết chứ không chịu khuất phục. Vậy nên ông gạt bỏ công danh để “hợp về nhàn”. Đó phải chăng là quyết định đúng đắn! Câu nói của ông thể hiện rõ thái độ dửng dưng, không quan tâm chuyện thị phi “lành dữ” hay lời khen chê, ông đã sống thật tâm, hết lòng thì đến nay chút lời ra tiếng vào với ông đã chẳng còn quan trọng. Đến đây ta có thể khẳng định chắc chắn đó là quyết định đúng đắn, là khí chất của kẻ sĩ khi đã buông bỏ vòng xoay danh lợi.


    Rời xa trốn hư vinh, ông khoan thai, ung dung trước cuộc sống tự do, tự tại:


    Ao cạn vớt bèo cấy muống.

    Đìa thanh phát cỏ ương sen.


    Hai câu thơ trên với giọng thơ đủng đỉnh và thể thơ lục ngôn, ta thấy được nhịp sống của ông khi “về nhàn” thật thanh bình, êm dịu. Phép đói “Ao cạn” với “đìa thanh”, “vớt bèo cấy muống” với “phát cỏ ương sen” được vận dụng khéo léo khắc họa được cuộc sống thanh tao, cần mẫn quá đỗi tự hào. Tuy trước làm quan nhưng khi về già không có sơn hào hải vị mà chỉ có “muống”, có “sen”. Ông vẫn giữ mãi cái thanh liêm thuở nào.


    Hai câu thơ tiếp theo càng lột tả rõ nét vẻ đẹp con người của Nguyễn Trãi với ngôn từ cổ điển, đậm đà thi vị:


    Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

    Thuyền chở yên hà nặng vạy then.


    Trở về chốn quê yên bình, ông lấy “phong”, lấy “nguyệt” làm bạn, lấy “yên”, lấy “hà” làm thú vui. Hỏi thử trên thế gian, mấy ai biết tận hưởng cuộc sống một cách thanh cao, đẹp đẽ như Nguyễn Trãi? Ông không chỉ cảm nhận cuộc sống bằng mắt thường, ông hòa mình vào chúng để tận hưởng, để thấy mùa thu như một nhà kho chứa đầy ắp gió trăng.


    Con thuyền của bậc thi nhân vốn chỉ trở khói ráng nay cũng phải lằn mình lại những chiếc thang thuyền. Có thể thấy tâm hồn thanh tao vẫn còn đó nhưng nay nó còn được hấp thụ thêm nét phóng khoáng, tự do của Ức Trai chan hòa với thiên nhiên, cây cỏ.


    Tuy đã về với đồng, với cỏ thế nhưng tấm lòng trung với nước, hiếu với dân của ông vẫn luôn hiện hữu và được thổ lộ ở hai câu kết:


    Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

    Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.


    Theo tiếng cổ, “bui” có nghĩa là “chỉ”. Nguyễn Trãi bộc lộ lòng trung hiếu, một lòng của mình đối với giang sơn và với bậc cha mẹ của mình. Tấm lòng son đó mãi trường tồn, thủy chung để dù có mài đi cũng không khuyết, có nhuộm màu cũng chẳng đen, chẳng hề vẩn đục. Câu thơ cuối sử dụng hai vế đối như một lời thề chắc nịc của chính ông với đất nước, với vua và đấng sinh thành.


    Bài thơ “Thuật hứng” với giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, nhưng không kém phần thanh cao. Nó là lời bày tỏ tình cảm cao đẹp của ông với cuộc đời nhàn hạ, thanh bạc mà không một lần quên nghĩ về nghĩa tử với nước với dân, nghĩ về tấm lòng trung hiếu. Quả thật, Nguyễn Trãi hoàn toàn xứng đáng với lời ngợi ca của vua Lê Thánh Tông đã dành cho ông: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ

  2. Nguyễn Trãi (1380-1442) là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời Đại việt trong thế kỷ 15. “Quốc âm thi tập” và “Ức trai thi tập” là hai kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam. Riêng “Quốc âm thi tập” – là một tập thơ viết bằng chữ Nôm ra đời sớm nhất mà ta còn giữ được gồm 254 bài – nó như ánh hào quang của ngôi sao Khuê lấp lánh xuyên suốt hành trình thiên niên kỷ của dân tộc.


    “Quốc âm thi tập” nhìn chung không có tên bài riêng cho mỗi bài thơ. Nguyễn Trãi nhóm thành nhiều chùm thơ: Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, Thuật hứng, Tự thán, Tức sự, Bảo kính cảnh giớ.v.v… Đây là bài thơ số 24 trong chùm thơ “Thuật hứng” 25 bài:


    Công danh đã được hợp về nhàn,

    ……

    Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.


    “Hợp” nghĩa là “nên”, là “đáng”; “âu chi” nghĩa là “lo chi” Nguyễn Trãi là cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán, đã từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ). Ông là mưu sĩ của Lê Lợi trong 10 năm kháng chiến chống giặc Minh “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”, từng làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Ông là người anh hùng dân tộc văn võ song toàn, đúng là “công danh đã được”.


    Về sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép. “Lưng khôn uốn, lộc nên từ”, ông đã vứt bỏ mọi công danh, tự dăn lòng mình: “hợp về nhàn”, nên về Côn Sơn ở ẩn, sống cuộc đời thanh nhàn chan hoà với tạo vật. Câu thơ thứ hai nói lên thái độ, cách ứng xử của Nguyễn Trãi: chẳng quan lâm gì trước mọi chuyện thị phi “lành dữ”, khen chê nữa.


    Mọi sự đánh giá sẽ do lịch sử, cần chi phải mệt lòng trăn trở. Đó là thái độ đúng, là khí tiết của kẻ sĩ khi đã thoát vòng danh lợi, lui về suối rừng ở ẩn. Trong bài thơ “Cuối xuân tức sự”, ông có viết:


    “Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn,

    Khách tục không ai bên mảng gần”.


    Một giọng thơ đủng đỉnh, khoan thai phản ánh một cuộc đời ung dung, tự tại. Hai câu trong phần “thực” nói lên nhịp điệu cuộc sống của Ức Trai khi đã “về nhàn”: “Ao cạn vớt bèo cấy muống.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  3. Nguyễn Trãi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của văn học Việt Nam, và phong cách thơ của ông rất đa dạng và phong phú. Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ của Nguyễn Trãi:

    • Tính hiện thực và chính trị: Nguyễn Trãi sống trong thời kỳ đầy biến động với nhiều cuộc chiến tranh và chính trị. Thơ của ông thường phản ánh hiện thực xã hội và chính trị, thể hiện lòng yêu nước và khát vọng độc lập của dân tộc. Những bài thơ như "Bình Ngô đại cáo" không chỉ có giá trị về mặt văn học mà còn về mặt lịch sử và chính trị.
    • Tinh thần nhân văn và yêu nước: Nguyễn Trãi có lòng yêu nước sâu sắc và thường bày tỏ lòng thương dân qua thơ của mình. Ông viết về sự đau khổ của nhân dân, về những khó khăn và thử thách mà đất nước phải đối mặt, và kêu gọi tinh thần đoàn kết và đấu tranh để giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ.
      • Ví dụ: "Bùi có một lòng trung liễn hiếu,Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen."
      • Phân tích: Nguyễn Trãi thể hiện lòng trung thành và hiếu nghĩa, nhấn mạnh sự trong sạch và trung thực trong cuộc sống của một người. Tinh thần nhân văn này phản ánh sự coi trọng phẩm hạnh cá nhân và lòng yêu nước, bởi việc trung thành và hiếu nghĩa cũng đồng nghĩa với việc phục vụ tổ quốc và nhân dân một cách tận tụy.
    • Sử dụng ngôn ngữ tinh tế và hình ảnh phong phú: Nguyễn Trãi có khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế, khéo léo và tạo ra những hình ảnh sống động. Ông thường dùng các hình ảnh thiên nhiên, lịch sử và văn hóa dân gian để tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc.
      • Ví dụ: "Ao cạn vớt bèo cấy muống/Trì thanh phát cỏ ương sen."
      • Phân tích: Những hình ảnh trong câu thơ này rất cụ thể và sinh động, mô tả hoạt động chăm sóc ao hồ và các cây cỏ. Nguyễn Trãi dùng các hình ảnh gần gũi và quen thuộc để tạo ra bức tranh thanh bình và gợi cảm giác yên tĩnh trong cuộc sống nông thôn. Điều này không chỉ thể hiện kỹ thuật nghệ thuật tinh tế mà còn tạo nên một không gian và tâm trạng hòa hợp với thiên nhiên.
    • Chủ đề đa dạng: Thơ Nguyễn Trãi không chỉ tập trung vào các vấn đề chính trị và xã hội, mà còn có nhiều bài thơ viết về tình yêu, tình bạn, và tình cảm gia đình. Ông cũng thể hiện sự kính trọng đối với các bậc tiền nhân và văn hóa dân tộc. Các tác phẩm nổi tiếng của ông: Bình Ngô Đại Cáo, Côn Sơn Ca,...
    • Thể loại và hình thức: Nguyễn Trãi sử dụng nhiều thể loại thơ khác nhau, bao gồm thơ Đường luật, thơ lục bát, và thơ ca dao. Ông linh hoạt trong việc sử dụng các thể loại này để truyền đạt ý tưởng và cảm xúc của mình.
    • Tính triết lý và tư tưởng: Thơ của Nguyễn Trãi thường mang một chiều sâu triết lý, với nhiều suy ngẫm về nhân sinh, đạo đức và quy luật cuộc sống. Ông thường kết hợp giữa lý tưởng và thực tiễn trong các tác phẩm của mình.

    Phong cách thơ của Nguyễn Trãi không chỉ được đánh giá cao vì nội dung và ý nghĩa sâu sắc mà còn vì kỹ thuật nghệ thuật tinh tế và sáng tạo. Những tác phẩm của ông tiếp tục có ảnh hưởng lớn đến nền văn học Việt Nam và là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà thơ và nhà văn sau này.

  4. Khi phân tích bài thơ "Thuật hứng" (Bài 24) của Nguyễn Trãi, bạn cần xem xét các khía cạnh chính để hiểu sâu sắc nội dung và phong cách của tác phẩm. Dưới đây là các nội dung cần có trong phân tích:

    • Giới thiệu Bài thơ
      • Tên bài thơ: "Thuật hứng" (Bài 24)
      • Tác giả: Nguyễn Trãi
      • Thời kỳ sáng tác: Thế kỷ 15, thời kỳ cuối đời Nguyễn Trãi, khi ông đã rút lui về cuộc sống yên tĩnh.
    • Nội dung chính của bài thơ
      • Tóm tắt nội dung: Bài thơ thể hiện sự hài lòng của tác giả với cuộc sống hiện tại sau khi đã đạt được những thành tựu và công danh. Ông mô tả cuộc sống thanh bình, gần gũi với thiên nhiên, và khẳng định phẩm hạnh cá nhân.
    • Phân tích các hình ảnh và chi tiết
      • Hình ảnh thiên nhiên và sinh hoạt:
        • "Ao cạn vớt bèo cấy muống, Trì thanh phát cỏ ương sen.": Miêu tả cảnh chăm sóc ao hồ, gợi lên hình ảnh cuộc sống giản dị và thanh tịnh.
        • "Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then.": Cảnh thu yên bình với ánh trăng và phong cảnh thuyền bè, thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên và cuộc sống an lạc.
      • Hình ảnh và động từ:
        • Các động từ như "vớt," "cấy," "phát," "ương" thể hiện sự chăm sóc và lao động trong cuộc sống hàng ngày, phản ánh tinh thần cần cù và kiên nhẫn của tác giả.
    • Chủ đề và tư tưởng
      • Tư tưởng về công danh và nhàn tản:
        • "Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế ngợi khen.": Phản ánh quan điểm của Nguyễn Trãi về sự từ bỏ công danh để tìm kiếm sự bình yên và hài lòng trong cuộc sống. Ông chấp nhận mọi biến động trong cuộc đời một cách bình thản.
      • Tinh thần nhân văn:
        • "Bùi có một lòng trung liễn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.": Nhấn mạnh giá trị phẩm hạnh, lòng trung thành và hiếu nghĩa, đồng thời khẳng định sự trong sạch và chân thật của bản thân.
    • Phong cách nghệ thuật
      • Ngôn ngữ và hình ảnh:
        • Tinh tế và phong phú: Nguyễn Trãi sử dụng ngôn ngữ đơn giản nhưng tinh tế, với hình ảnh rõ nét và cụ thể. Điều này không chỉ tạo ra bức tranh sống động mà còn phản ánh cảm xúc và tư tưởng của tác giả.
      • Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ Đường luật với cấu trúc rõ ràng và quy tắc. Phong cách thơ này giúp thể hiện các ý tưởng một cách mạch lạc và đầy đủ.
    • Tình cảm và tâm trạng của tác giả
      • Tâm trạng yên tĩnh và hài lòng: Bài thơ thể hiện sự hài lòng với cuộc sống hiện tại và sự chấp nhận mọi biến động của cuộc đời. Tác giả cảm thấy hài lòng với sự đơn giản và thanh bình của cuộc sống nông thôn.
    • Ý nghĩa và giá trị của bài thơ
      • Ý nghĩa trong bối cảnh lịch sử và xã hội: Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn phản ánh quan điểm sống của Nguyễn Trãi sau những năm tháng cống hiến cho đất nước. Nó thể hiện sự tìm kiếm sự an lạc và thanh thản sau những năm tháng đầy biến động.
      • Giá trị văn học: Bài thơ là một ví dụ điển hình của phong cách thơ Nguyễn Trãi, kết hợp giữa hiện thực và tinh thần nhân văn, đồng thời cho thấy sự tài hoa trong việc sử dụng hình ảnh và ngôn từ.
    • Kết luận: Đánh giá tổng quát về sự thành công của bài thơ trong việc truyền tải các thông điệp của tác giả, và sự ảnh hưởng của phong cách thơ Nguyễn Trãi đối với văn học Việt Nam.
    • Những liên hệ và so sánh (nếu có)
      • So sánh với các tác phẩm khác: Có thể so sánh "Thuật hứng" với các bài thơ khác của Nguyễn Trãi hoặc với các tác phẩm của các nhà thơ khác trong cùng thời kỳ hoặc các thời kỳ khác để làm nổi bật sự độc đáo của bài thơ.

    Những nội dung này sẽ giúp bạn có một phân tích sâu sắc và toàn diện về bài thơ "Thuật hứng" của Nguyễn Trãi.

  5. Tác giả Nguyễn Trãi là một nhà văn hóa lớn, là anh dân tộc đã cống hiến hết mình cho đất nước ta. Ông đã để lại cho chúng ta nhiều di sản có giá trị đặc biệt là trong nền văn học. Tác gia Nguyễn Trãi cũng góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà qua nhiều tác phẩm nổi bật trong đó có bài thơ Thuật hứng đã thể hiện lối sống thanh nhàn của chính mình.


    Chúng ta thường mong muốn bản thân mình có một cuộc sống thanh nhàn nhưng liệu chúng ta đã hiểu rõ ý nghĩa của lối sống này chưa? Lối sống thanh nhàn ở đây có nghĩa là lối sống giản dị mà thanh cao, coi thường mọi thị phi ngoài thiên hạ, hướng con người ta hòa hợp vào thiên nhiên. Tác giả Nguyễn Trãi cũng là một trong những người có lối sống ấy. Cũng nhờ đó mà ông đã sáng tác ra bài thơ Thuật hứng để thể hiện cho người thấy lối sống thanh nhà của ông như thế nào.


    Công danh đã được hợp về nhàn

    Lành dữ âu chi thế nghị khen


    Đối với mọi người thì chuyện công danh sự nghiệp luôn được ưu tiên hàng đầu. Ở thời ấy những nhà Nho mang trong mình tình yêu quê hương đất nước đều chăm chỉ học hành để cống hiến cho đất nước để đạt được công danh nhất định. Nhưng với Nguyễn Trãi lại khác, khi công danh của ông đang ở trên đỉnh cao thì ông lại muốn trút bỏ gánh nặng công danh để có một cuộc sống thanh nhàn. Việc tranh giành vinh hoa phú quý chỉ khiến ông cảm thấy mệt mỏi và nặng nề hơn.


    Nhiều người vì hai chữ “công danh” mà đã phải bán mạng để đổi lấy sự vinh hoa phú quý cũng như những lời xu nịnh của bọn nịnh thần. Cũng bởi những lời nịnh hót ấy mà cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ như chìm trong vũng bùn lầy, khổ không sao tả được. Để bản thân không xa đọa như bọn tiểu nhân chốn quan trường thì Nguyễn Trãi đã trở về quê nhà sau khi đã cống hiến tài năng của mình cho đất nước.

    Ở nơi quê nhà thanh bình yên tĩnh ông đã có một cuộc sống như mơ ước, một cuộc sống thanh bình giản dị.


    Ao cạn vớt bèo cấy muống

    Đìa thanh phát cỏ ương sen


    Về quê thì ông đã làm những công việc bình dị như “vớt bèo”, “cấy muống”, “ương sen”. Khi nhìn vào những công việc này chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến việc không có vị quan nào mà lại làm những việc này cả. Nhưng lại có một Nguyễn Trãi mong muốn được hòa mình vào thiên nhiên và trở thành một não nông dân chính hiệu. Chỉ cần làm những công việc đơn giản như vậy thôi cũng đủ khiến nhà thơ thanh thản và mãn nguyện với cuộc sống không dính chút bụi trần.


    Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

    Thuyền chở yên hà nặng vạy then.


    Ở nơi không có người bầu bạn thì Nguyễn Trãi đã thả hồn vào thiên nhiên để bầu bạn cùng “phong” và “nguyệt”. Thiên nhiên như một người bạn tri kỉ đối với ông mà chỉ có những người yêu thiên nhiên mới cảm nhận được sự hoàn hảo của tình bạn này.


    Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

    Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.


    Mặc dù đã trở về quê hương để ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn hướng về dân về nước. Khi nhân dân vẫn còn lầm than thì ông không thể nào ngồi yên mà hưởng sự thanh nhàn ấy được. Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Trãi là một người vô cùng có trách nhiệm, luôn cố gắng tìm mọi cách để đất nước luôn được thái bình. Từ đáy lòng ông luôn đau đáu “một lòng trung lẫn hiếu”, thủy chung son sắt với dân với nước. Sự tiếc nuối lớn nhất của ông là khi chưa cống hiến được hết tài năng mà đã về hưởng thụ cuộc sống nhàn nhã.


    Từ những lời thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng của tác giả Nguyễn Trãi đã giúp chúng ta thấy được vẻ đẹp thực sự của cuộc sống thanh nhàn là như thế nào. Sống thanh nhàn nhưng ông vẫn không quên được tình yêu quê hương đất nước.


    Qua bài thơ Thuật Hứng 24 này mà chúng ta cần học hỏi nhiều hơn về vị quan Nguyễn Trãi liêm khiết, chính trực. Chúng ta cần phải ý được được bản thân trong việc bảo vệ và xây dựng quê hương đất nước để nước ta luôn được hòa bình và nhân dân có một cuộc sống tốt hơn.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  6. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà văn nhà thơ lớn, song ông cũng là một nhà chính trị tài ba, kiệt xuất. Trong cuộc khởi nghĩa của nghãi quân Lam Sơn, nhờ những mưu tài kế lược của ông mà nghĩa quân dưới chướng của vua Lê Lợi đã giành những chiến thắng hiển hách trước quân Minh. Sau khi đất nước giành độc lập, ông lại trở thành một vị quan liêm khiết, có lối sống thanh bạch.


    Nhưng cũng vì sự liêm khiết, thẳng thắn đó mà Nguyễn Trãi thường xuyên bị bọn nịnh thần ghen ghét, đố kị và tìm cách hãm hại, sau khi trải qua bao biến cố của cuộc đời. Nguyễn Trãi đã quyết định từ bỏ chốn quan trường mà lui về ở ẩn. Và khi ở ẩn ở núi Côn Sơn, Chí Linh ông đã có những sáng tác hay, có giá trị, một trong số đó có thể kể đến là bài thơ “Thuật hứng”.


    Ta có thể thấy, từ khi về ở ẩn, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống vô cùng bình dị, gần gũi với thiên nhiên, vạn vật. Cũng ở đây ông cảm nhận được nhịp sống bình lặng, cảnh sắc tươi đẹp của cảnh vật dân dã, ông được trải nghiệm cuộc sống giản dị mà thanh khiết, không vướng bụi trần như bao nhà nho sĩ ở ẩn khác. Ngay phần mở đầu của bài thơ, Nguyễn Trãi đã thể hiện được tâm hồn thanh thản khi đã bỏ lại được sau lưng cái bụi hồng trần, cái cuộc sống xô bồ chốn quan trường và cái hư danh của chức tước.


    “Công danh đã được hợp về nhàn

    Lành dữ âu chi thế nghị khen”


    Công danh là cái đích cũng là niềm mơ ước mà bao nhiêu nhà Nho xưa hướng đến, học tu luyện phẩm chất, chăm chỉ học hành cũng chỉ mong ngày nào đó có được một chút công danh, được cống hiến sức lực, tài năng của mình cho đất nước. Nói về vấn đề công danh, nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng đã từng khẳng định: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Ở đây, Nguyễn Trãi lại thể hiện được sự nhẹ nhõm, thanh nhàn khi trút bỏ được gánh nặng của công danh. “Hợp” ở đây là nên, tức công danh nên gác lại ở đó mà lui về ở nhàn, tức là sống cuộc sống của dân dã, lấy thiên thiên là thú vui của cuộc sống.


    Trong cuộc sống thanh nhàn, không có cái ồn ào, bát nháo lại đầy ghen tị của lũ tiểu nhân chốn quan trường nữa, Nguyễn Trãi cũng không cần phải quan tâm đến những lời khen chê, nịnh nọt hay dùng những lời độc địa để hãm hại nữa “Lành dữ âu chi thế nghị khen”. Bao giờ cũng vậy, làm chức quan trong triều đình cũng gặp rất nhiều cám dỗ, nếu xuôi theo bọn nịnh thần thì sẽ có cuộc sống phú quý, nhưng lại vô tình đánh mất đi phẩm chất của mình.


    Còn nếu sống đúng với con người mình, lối sống trong sạch, liêm khiết thì lại chống đối lại với cả một tập đoàn gian thần, và khi đã không cùng phe với chúng thì chúng sẽ tìm đủ mọi cách để vu oan, hãm hại. Và Nguyễn Trãi lại là một vị quan liêm chính, có lối sống trong sạch quyết không chịu cúi đầu trước cái xấu xa, cũng vì vậy mà ông là đối tượng mà bọn gian thần này muốn hãm hại, diệt trừ.


    Nay, ông đã trút bỏ được hết thứ hư danh ấy để về với cuộc sống bình dị, ông sống cuộc sống như của một ẩn sĩ thực sự, vui với những thú vui giản dị:


    “Ao cạn vớt bèo cấy muống

    Đìa thanh phát cỏ ương sen”


    Là một vị quan tài giỏi nhưng khi đã về ở ẩn thì cuộc sống của Nguyễn Trãi cũng giản dị, mộc mạc như bao người Nho sĩ khác, sống bầu bạn với thiên nhiên, làm những công việc dung dị, “vớt bèo” để cấy muống, đó là những loài thực vật trong tự nhiên nhưng trong cuộc sống ở ẩn đấy thì nó lại là những nguồn thức ăn, nguồn thực phẩm mà nhà thơ sử dụng nó hàng ngày.


    Cuộc sống nơi hoang dã không có những sơn hào hải vị mà chỉ có “muống”, “ương sen”, nhưng cũng chỉ cần như vậy thôi, cuộc sống cũng đã vô cùng ý nghĩa, mãn nguyện. Bởi cái nhà thơ có được là sự thanh thản trong tâm hồn, được sống ở một môi trường trong sạch, không vướng bụi trần.


    “Kho thu phong nguyệt chở đầy qua nóc

    Thuyền chở yên hà nặng vậy then”


    Những câu thơ này thể hiện được lối sống thanh bạch của nhà thơ Nguyễn Trãi khi lấy “phong”, “nguyệt” tức gió trăng là người bầu bạn, cảm nhận nhịp sống nơi dân dã, tâm hồn thanh bạch của con người vĩ đại này dường như đã được tỏa rạng. Tuy đã lui về ở ẩn nhưng với tấm lòng của Nho sĩ yêu nước, luôn hướng về dân về nước thì ông vẫn mang nặng nỗi lòng về vận sự của đất nước “Bụi có một lòng trung lẫn hiếu” lòng trung hiếu của ông không bao giờ vơi cạn, và ông cũng cảm thấy có chút hối tiếc khi không thể đem sức tài mọn của mình ra để cống hiến “Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.


    Như vậy, bài thơ “Thuật hứng” đã cho ta thấy hình ảnh thật đẹp của một ẩn sĩ khi quyết định từ bỏ chốn quan trường mà về bầu bạn với thiên nhiên nơi dân dã, đó là một ẩn sĩ có lối sống thanh bạch, liêm khiết. Tuy đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông vẫn không thôi trăn trở về dân, về nước. Đây chính lầ biểu hiện nhân nghĩa của một bậc nhân tài.

    Hình minh hoạ
    Hình minh hoạ
  7. Nguyễn Trãi không chỉ là nhà văn hóa mà còn là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, tiêu biểu phải kể đến “Thuật hứng 24”. Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết của thi nhân. Từ đó, thấy rõ hơn quan niệm sống tốt đẹp mà ông hướng tới.


    “Thuật hứng” là chùm thơ gồm 25 bài trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi. Bài thơ số 24 được viết trong những ngày tác giả về ở ẩn Côn Sơn hòa mình vào với thiên nhiên. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.


    Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được lựa chọn của mình:


    “Công danh đã hợp về nhàn

    Lành dữ âu chi thế nghị khen”


    Ở thời đại Nguyễn Trãi đang sống thì công danh là điều mà bất cứ ai cũng muốn đạt được. Có những người dành cả cuộc đời mình để chạy theo những cái xa hoa, phù phiếm bên ngoài. Nhưng xã hội bấy giờ mục nát, thật – giả lẫn lộn. Vậy nên thi nhân lựa chọn gạt bỏ công danh để “hợp về nhàn”. Ông quyết định từ bỏ chốn quan trường đầy thị phi để hòa mình vào thiên nhiên.


    Quan niệm sống “nhàn” này cũng được bắt gặp trong bài thơ “Ngôn chí” (bài 3) của chính Nguyễn Trãi. Ông không quan tâm “lành dữ” những lời dèm pha của nhân gian mà chọn cho mình cuộc sống an yên, tự tại. Qua đây, người đọc có thể cảm nhận được Ức Trai là người không màng công danh, phú quý, luôn giữ một tâm hồn thanh sạch.


    Ở hai câu thơ tiếp theo, độc giả cảm nhận được cuộc sống giản dị, dân dã của Nguyễn Trãi nơi quê nhà:


    “Ao cạn vớt bèo cấy rau muống

    Đìa thanh phát cỏ ương sen”


    Hình ảnh Nguyễn Trãi hiện lên trong hai câu thơ vô cùng chân thực, giản dị và gần gũi. Hàng ngày, thi nhân vớt bèo và cấy rau muống rồi phát cỏ trồng sen. Dù cho bữa ăn chỉ có rau muống thì thi nhân vẫn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện. Trong “Ngôn chí” (bài 3), Nguyễn Trãi cũng thể hiện quan niệm của mình về cuộc sống dân dã nơi thôn quê “Cơm ăn dầu có dưa muối/Áo mặc nài chi gấm là”. Từ đó, người đọc lại càng cảm nhận rõ hơn tâm hồn thanh cao, không màng công danh phú quý của người quân tử.


    Không chỉ có lối sống giản dị, Nguyễn Trãi còn mang tâm hồn nhạy cảm, luôn yêu và gắn bó tha thiết với thiên nhiên:


    “Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

    Thuyền chở yên hà nặng vậy then”


    Ở chốn quê hương, Ức Trai lấy “phong”, “nguyệt” làm bạn. Trăng như người bạn tri âm tri kỉ, đồng hành cùng người nghệ sĩ. Và đó cũng là nguồn cảm hứng sáng tác cho rất nhiều tác gia trung đại khác. Sự xuất hiện của hình ảnh trăng khiến độc giả cảm nhận rõ hơn bức tranh cuộc sống nên thơ, diễm lệ. Hai từ “yên hà” đã gợi lên tưởng tượng về sự thanh bình chốn làng quê. Dường như ở nơi đây hoàn toàn tách biệt với những bộn bề ngoài kia, chỉ có thiên nhiên bầu bạn với thi nhân. Vậy nên, lúc này nhà thơ như đang mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời.


    Mặc dù “lánh đục tìm trong”, từ bỏ chốn quan trường để lui về ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn dành trọn vẹn tấm lòng lo cho dân, cho nước:


    “Bui có một lòng trung lẫn hiếu

    Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”


    Hai câu thơ cuối khép lại như một lời khẳng định chắc nịch cho tấm lòng trung quân, ái quốc của tác giả. Về ở ẩn, nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn trăn trở, âu lo cho cuộc sống của nhân dân. Tấm lòng thủy chung của nhà thơ không gì có thể thay đổi được, có nhuộm màu cũng chẳng thể đen, chẳng thể vẩn đục.


    Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú đặc sắc kết hợp với giọng điệu tâm tình, tha thiết và những hình ảnh thơ quen thuộc đã làm nổi bật những chiêm nghiệm về cuộc đời mà Ức Trai muốn truyền tải.





Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy