Top 15 Chất hóa học gây ung thư ở người bạn cần biết

Đinh Thị Thu Thúy 14508 0 Báo lỗi

Các chất hóa học độc hại được biết đến là tác nhân gây ung thư nguy hiểm nhất ở người. Các chất này có thể dễ dàng nhiễm vào cơ thể mỗi chúng ta qua thực phẩm, ... xem thêm...

  1. Chất vàng ô có tên gọi khác là Auramine O, tên hóa học là Diarylmethane, chất vàng ô có dạng huỳnh quang, hạt mạ vàng, dễ tan trong nước và trong cồn. Chất vàng ô được sử dụng rộng rãi trong nhuộm vải, giấy, vật liệu quét tường. Là một chất hóa học độc hại, được tổ chức Ung thư thế giới IARC xếp vào hàng các chất gây ung thư nhóm 3 (khả năng gây ung thư cao), vì thế chất vàng ô bị nghiêm cấm sử dụng trong chế biến thực phẩm hay bất cứ phục vụ cho hoạt động sinh hoạt nào. Chỉ cần nhiễm một lượng nhỏ chất vàng ô cũng gây nguy hiểm tới tính mạng của người tiêu dùng.


    Nói về chất vàng ô, ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), cho biết, vàng ô là hóa chất được nhập khẩu về từ nước ngoài, có công dụng để nhuộm màu sợi vải hoặc được sử dụng làm nguyên liệu làm ve quét tường trong ngành xây dựng. Chất này không được phép sử dụng trong thực phẩm vì nó có hại cho sức khỏe của con người khi ăn các loại thịt có tồn dư chất này.


    Đồng quan điểm trên PGS.TS Nguyễn Duy Thịnh – Chuyên gia về Công nghệ thực phẩm cho biết, vàng ô (hay còn gọi là VAT Yellow) là hóa chất được dùng để nhuộm màu vải, nên khi được cho thêm vào thức ăn gia cầm hoặc nhuộm vàng các loại thực phẩm khác thì chất này sẽ có tác dụng như một loại chất nhuộm màu gián tiếp cho sản phẩm, khiến việc phát hiện thêm khó khăn.

    Chất hóa học độc hại: chất vàng ô để nhuộm giấy
    Chất hóa học độc hại: chất vàng ô để nhuộm giấy
    Chất vàng ô có bề ngoài gần giống với bột nghệ
    Chất vàng ô có bề ngoài gần giống với bột nghệ

  2. Top 2

    Dioxin

    Dioxin là một chất hóa học được xếp vào loại cực độc, dioxin bắt nguồn từ việc đốt cháy túi nilon từ các hoạt động của con người. Dioxin là chất ít tan trong nước, tồn tại chủ yếu trong lòng đất, qua đó chất lây nhiễm vào cơ thể con người qua con đường thực phẩm, chủ yếu ở rau quả được trồng trong đất có chứa dioxin.


    Ngoài ra, dioxin cũng có thể gây ngộ độc trực tiếp qua đường hô hấp, qua da khi tiếp xúc hay qua nước uống. Với liều lượng cao, dioxin có thể gây độc cấp tính, gây tử vong ngay lập tức, còn với liều lượng thấp, dioxin có thể gây ra căn bệnh ung thư nguy hiểm. Dioxin tích lũy trong chuỗi thức ăn trong một thời trang tương tự như các hợp chất clo khác (tích lũy sinh học). Điều này có nghĩa rằng ngay cả nồng độ nhỏ trong nước bị ô nhiễm có thể được tập trung lên một chuỗi thức ăn đến mức nguy hiểm vì chu kỳ phân hủy dài và độ tan trong nước thấp của dioxin.


    Cơ chế phân tử của dioxin tác động lên các tế bào và cơ thể người, động vật vẫn đang còn nhiều tranh cãi về chi tiết. Thời gian bán phân huỷ của dioxin trong cơ thể động vật là 7 năm hoặc có thể lâu hơn. Thông thường, dioxin gây độc tế bào thông qua một thụ thể chuyên biệt cho các hydratcarbon thơm có tên là AhR (Aryl hydrocarbon Receptor). Phức hợp dioxin - thụ thể sẽ kế hợp với protein vận chuyển ArnT (AhR nuclear Translocator) để xâm nhập vào trong nhân tế bào.


    Tại đây dioxin sẽ gây đóng mở một số gene giải độc quan trọng của tế bào như Cyp1A, Cyp1B,... Đồng thời, một số thí nghiệm trên chuột cho thấy dioxin làm tăng nồng độ các gốc ion tự do trong tế bào. Điều này, có thể là làm phá huỷ các cấu trúc tế bào, các protein quan trọng và, quan trọng hơn cả, nó có thể gây đột biến trên phân tử DNA, dẫn tới các chứng bệnh liên quan là ung thư, bệnh di truyền và quái thai.

    Dioxin là một chất hóa học độc hại gây ung thư ở người
    Dioxin là một chất hóa học độc hại gây ung thư ở người
    Dioxin
    Dioxin
  3. Formol, hàn the là hợp chất hữu cơ cực độc nhưng lại hay bị lạm dụng quá mức trong khâu chế biến các loại thực phẩm thông dụng như: phở, hủ tiếu, bún… để tạo độ dai và giúp thực phẩm lâu ôi thiu.


    Hợp chất này làm biến dạng các nhiễm sắc thể, dẫn đến gây một số bệnh ung thư nguy hiểm cho người như: ung thư xoang mũi, ung thư họng, ung thư phổi, ung thư đường tiêu hóa... Bên cạnh đó, hàn the khi được đưa vào cơ thể, khoảng 20% lượng hàn the sẽ tích tụ và gây tổn thương các tế bào gan, dẫn đến sơ gan, cuối cùng là ung thư gan không có thuốc đặc trị.


    Cũng như foocmon, hàn the cũng là một chất hóa học có tên khoa học là TETRABORAT Natri, là một chất không màu, dễ tan trong nước, có tính sát khuẩn nhưng rất độc, khi ăn vào cơ thể chỉ thải được một phần, phần còn lại tích lũy trong cơ thể gây nhiều tác hại khác nhau. Vì hàn the có thể làm thực phẩm dai và dòn hơn nên thường bị lợi dụng cho thêm vào một vài loại thức ăn để tăng tính ngon của chúng.


    Foocmon và hàn the thường được cho thêm vào trong các loại thực phẩm nào? Do có đặc tính làm thức ăn dai hơn, giòn hơn, bảo quản được lâu hơn, vì vậy mặc dù là độc chất bị nghiêm cấm, nhưng một số người do vô ý hoặc cố tình vẫn cho thêm vào một số loại thực phẩm để tạo ngon miệng, nhằm câu khách để thu lợi nhuận, bất chấp những độc hại nghiêm trọng của chúng. Thông thường foocmon và hàn the thường có trong các loại thực phẩm cần độ dai, độ dòn và khó bảo quản như: bánh phở, hủ tiếu, bánh ướt, bánh canh, nem, chả, dưa chua các loại. Và chúng ta còn thường xuyên gặp các loại phụ gia này trong ác loại bánh, các món ăn chế biến bằng phương thức chiên, xào như tôm lăng bột, cua lột chiên bơ, chả giò, há cảo chiên

    Formol, hàn the sử dụng trong thực phẩm
    Formol, hàn the sử dụng trong thực phẩm
    Formol, hàn the
    Formol, hàn the
  4. Top 4

    Styrene

    Styren hay vinyl benzene hoặc phenyl ethene là một hợp chất hữu cơ có công thức hóa học C6H5CH=CH2. Đây là chất lỏng gốc benzen không màu, nhẹ hơn nước, không tan trong nước, dễ bay hơi và có vị hơi ngọt tuy nhiên khi đậm đặc thì có mùi khó chịu. Styren là chất được dùng để sản xuất polystyren và nhiều polyme khác. Có khoảng 25 triệu tấn styren được sản xuất trong năm 2010. Styren là chất lỏng không màu, nhẹ hơn nước và không tan trong nước nhưng tan nhiều trong dung môi hữu cơ.


    Theo báo cáo nghiên cứu của “Chương trình độc chất học quốc gia” của Mỹ, styrene là một chất hóa học gây ung thư nguy hiểm, nó có thể phá hủy DNA trong cơ thể người, suy giảm khả năng miễn dịch và gây nên căn bệnh ung thư. Styren được sử dụng trong xốp và góp phần làm phát triển ung thư, giảm thị lực, thính giác và gây tổn thương hệ thần kinh.


    Styrene được sử dụng phổ biến trong các quá trình sản xuất các loại hộp xốp, đặc biệt là các loại hộp xốp đựng thức ăn, bát, đũa, cốc dùng 1 lần. Vì vậy, để không nhiễm styrene độc hại, chúng ta tuyệt đối không sử dụng các loại vật dụng sử dụng 1 lần để tránh nguy hiểm.

    Styrene được sử dụng sản xuất đồ dùng 1 lần
    Styrene được sử dụng sản xuất đồ dùng 1 lần
    Styrene
    Styrene
  5. CERCLA thừa nhận tất cả các đồng vị phóng xạ đều là các chất gây ung thư nguy hiểm cho con người, dù chúng phóng ra tia phóng xạ nào (alpha, beta, gama hay nơ tron) và cường độ phóng xạ mạnh hay yếu thì chúng đều dẫn đến gây ion hóa các mô và cường độ phơi bức phóng xạ quyết định nguy cơ gây bệnh trên người.


    Mức độ gây ra ung thư trên cơ thể người của phóng xạ phụ thuộc vào dạng bức xạ, dạng phơi nhiễm và độ xâm nhập. Ví dụ, tia alpha có độ xâm nhập thấp và không gây hại khi ở bên ngoài cơ thể người, nhưng sẽ là tác nhân gây ung thư nếu như chúng ta hít hoặc nuốt phải nó.


    Tia phóng xạ theo nghĩa gốc là các dòng hạt chuyển động nhanh phóng ra từ các chất phóng xạ (các chất chứa các hạt nhân nguyên tử không ở trạng thái cân bằng bền). Các hạt phóng ra có thể chuyển động thành dòng định hướng. Ngoài sự phân rã tự nhiên của các chất phóng xạ, tia phóng xạ cũng còn được quan sát từ các nguồn khác như các lò phản ứng hạt nhân, máy gia tốc hay va chạm của các tia vũ trụ trong khí quyển Trái Đất.


    Các lò phản ứng hạt nhân có thể tạo ra dòng hạt neutron mạnh. Các máy gia tốc có thể sinh ra dòng các hạt tổ hợp có khối lượng cao hơn. Còn tia vũ trụ có thể sản sinh muon và meson. Thuật ngữ tia phóng xạ cũng có thể mở rộng, để bao gồm các dòng hạt chuyển động nhanh phát ra từ các nguồn này.

    Tia phóng xạ gây dị tật ở trẻ em
    Tia phóng xạ gây dị tật ở trẻ em
    Tia phóng xạ
    Tia phóng xạ
  6. Top 6

    Asen

    Một cuộc khảo sát về an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng được Hiệp hội nhà tiêu dùng Mỹ tiến hành đã phát hiện, hàm lượng asen trong gạo lứt đều cao hơn so với gạo trắng, điều này là một nỗi lo lắng của các nhà an toàn thực phẩm cũng như mỗi người tiêu dùng.


    Trong tiếng Việt, asen thường bị gọi nhầm là thạch tín- vốn là từ chỉ quặng oxit của nó - asen trioxit (As2O3), cũng là chất độc như asen. Nhưng thạch tín là Arsenolit, một dạng khác của asen và có độc, hình thành thứ cấp như là sản phẩm phong hóa (oxi hóa) của các khoáng vật sulfua chứa asen trong các mạch nhiệt dịch. Asen là một á kim có màu xám bạc và Asen rất độc khi ở dạng hợp chất. Trong tự nhiên, Asen nằm ở lớp trầm tích của vỏ trái đất do vậy nó thường có mặt trong các tầng nước ngầm và nước bề mặt.


    Asen làm suy giảm chức năng hệ thống hồi phục tự nhiên của cơ thể, khi các tế bào cơ thể bị tổn thương, DNA không thể phục hồi như cũ, các loại virus, vi khuẩn dễ dàng xâm nhập cơ thể và gây ra ung thư.

    Cùng chung tay loại bỏ asen độc hại trong nước
    Cùng chung tay loại bỏ asen độc hại trong nước
    Asen
    Asen
  7. Atrazine là chất diệt cỏ thường được sử dụng trong nông nghiệp trồng cây thương mại, nó thấm vào nguồn nước ngầm và gây ô nhiễm độc hại. Atrazine là một loại thuốc diệt cỏ thuộc nhóm triazine. Nó được sử dụng để ngăn chặn cỏ dại lá rộng trước và sau khi trồng trong các loại cây trồng như ngô (ngô) và mía và trên sân cỏ, chẳng hạn như sân golf và bãi cỏ. Nhà sản xuất chính của Atrazine là Syngenta và đây là một trong những loại thuốc diệt cỏ được sử dụng rộng rãi nhất ở Hoa Kỳ và nông nghiệp Úc.


    Atrazine tồn tại trong đất trong vài tháng (mặc dù trong một số loại đất có thể tồn tại ít nhất 4 năm) và có thể di chuyển từ đất sang nước ngầm, một lần trong nước ngầm, nó xuống cấp chậm. Nó đã được phát hiện trong nước ngầm ở mức cao ở một số vùng của Hoa Kỳ, nơi nó được sử dụng trên một số cây trồng và cỏ. Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ bày tỏ mối quan tâm về ô nhiễm nước mặt (hồ, sông và suối).


    Atrazine gây ra tình trạng rối loạn hoocmon và tăng nguy cơ bị ung thư vú, tuyến tiền liệt và các vấn đề về sinh sản ở nữ giới. Bạn có thể tránh atrazine độc hại bằng cách mua thực phẩm hữu cơ sạch, sử dụng bộ lọc nước có khả năng loại bỏ Atrazine là cách tốt nhất để bảo vệ cho sức khỏe của bạn.

    Thuốc diệt cỏ atrazine gây ô nhiễm nguồn nước
    Thuốc diệt cỏ atrazine gây ô nhiễm nguồn nước
    Atrazine
    Atrazine
  8. Nonylphenol là một họ các hợp chất hữu cơ có liên quan chặt chẽ bao gồm phenol mang 9 đuôi carbon. Nonylphenol có thể có nhiều cấu trúc, tất cả đều có thể được coi là alkylphenol. Nonylphenol được sử dụng rộng rãi trong sản phẩm giặt giũ, nước rửa chén, trong sơn quét tường, những sản phẩm chăm sóc cá nhân và đồ dùng nhựa.


    Các loại alkylphenol như nonylphenol và bisphenol A có tác dụng estrogen trong cơ thể. Chúng được gọi là xenoestrogen. Các chất estrogen và các chất gây rối loạn nội tiết khác là các hợp chất có tác dụng giống như hormone trong cả động vật hoang dã và con người. Xenoestrogen thường hoạt động bằng cách liên kết với các thụ thể estrogen và hoạt động cạnh tranh với estrogen tự nhiên. Nonylphenol đã được chứng minh là bắt chước hormone tự nhiên 17β-estradiol , và nó cạnh tranh với hormone nội sinh để liên kết với các thụ thể estrogen ERα và ERβ.


    Nonylphenol được phát hiện có tác dụng giống như hormone do tai nạn vì nó đã làm ô nhiễm các thí nghiệm khác trong các phòng thí nghiệm đang nghiên cứu estrogen tự nhiên đang sử dụng ống polystyrene.


    Nghiên cứu cho thấy nó kích thích sự di chuyển của các tế bào ung thư buồng trứng gây di căn, kích thích sự phát triển của căn bệnh ung thư vú, một số trường hợp nó còn gây nên tình trạng vô sinh rất phổ biến hiện nay. Bạn nên tránh xa chất độc hại bằng cách mua các sản phẩm có nguồn gốc và kiểm định rõ ràng, không chứa phenols.

    Nước tẩy rửa có chứa nonylphenol gây hại
    Nước tẩy rửa có chứa nonylphenol gây hại
    Nonylphenol
    Nonylphenol
  9. Top 9

    Chì

    Chì là một nguyên tố hóa học có hóa trị phổ biến là II, có khi là IV. Chì là một kim loại mềm, nặng, độc hại và có thể tạo hình. Chì có màu trắng xanh khi mới cắt nhưng bắt đầu xỉn màu thành xám khi tiếp xúc với không khí.


    Chì dùng trong xây dựng, ắc quy chì, đạn, và là một phần của nhiều hợp kim. Chì có số nguyên tố cao nhất trong các nguyên tố bền. Chì có khả năng gây hại ở hầu hết các bộ phận trên cơ thể người. Đặc biệt khi mọi thực phẩm và vật dụng đều có khả năng bị nhiễm chì thì sức khỏe của mỗi chúng ta càng bị đe dọa.


    Chì là một kim loại độc có thể gây tổn hại cho hệ thần kinh, đặc biệt là ở trẻ em và có thể gây ra các chứng rối loạn não và máu. Ngộ độc chì chủ yếu từ đường thức ăn hoặc nước uống có nhiễm chì, nhưng cũng có thể xảy ra sau khi vô tình nuốt phải các loại đất hoặc bụi nhiễm chì hoặc sơn gốc chì. Tiếp xúc lâu ngày với chì hoặc các muối của nó hoặc các chất ôxy hóa mạnh như PbO2) có thể gây bệnh thận, và các cơn đau bất thường giống như đau bụng. Đối với phụ nữ mang thai, khi tiếp xúc với chì ở mức cao có thể bị sẩy thai.


    Chì có thể vẫn còn trong sơn, trong nước uống giải khát, trong son môi... và có cả trong nguồn nước ở những vùng bị nhiễm độc chì. Nếu nhiễm một lượng chì đủ lớn, cơ thể bạn sẽ bị nhiễm độc, các mô, tế bào bị hủy hoại sẽ dẫn đến căn bệnh ung thư nguy hiểm.

    Nước uống nhiễm chì gây hại ở người
    Nước uống nhiễm chì gây hại ở người
    Nước uống nhiễm chì gây hại ở người
    Nước uống nhiễm chì gây hại ở người
  10. Top 10

    PBDEs

    PBDEs là chất chống cháy được dùng nhiều trong các sản phẩm bình xịt cứu hỏa trước năm 2005. Nó được dùng cả trong thảm đệm, đồ nội thất bọc, gối và các thiết bị điện tử. Nó gây ra tình trạng rối loạn sinh sản, nhiễu loạn hoocmon và tăng nguy cơ ung thư vú cao ở phụ nữ.


    Hiện nay, PBDEs đã bị cấm sử dụng, tuy nhiên vẫn còn những cơ sở vì ham giá thành rẻ mà vẫn bất chấp nguy hiểm và tính mạng con người mà tiếp tục sử dụng PBDEs. Để tránh chất hóa học gây hại này, bạn nên mua sản phẩm sản xuất rõ nguồn gốc, nếu sản phẩm trong nhà chứa chất này bạn có thể dùng máy lọc HEPA để khử độc.


    Mọi người tiếp xúc với mức PBDEs thấp thông qua việc ăn thức ăn và qua đường hô hấp. PBDEs tích lũy sinh học trong máu, sữa mẹ và các mô mỡ. Nhân sự liên quan đến việc sản xuất các sản phẩm có chứa PBDE được tiếp xúc với mức PBDEs cao nhất. Tích lũy sinh học là mối quan tâm đặc biệt trong những trường hợp như vậy, đặc biệt là đối với nhân viên trong các nhà máy tái chế và sửa chữa làm việc trên các sản phẩm có chứa PBDE.


    Mọi người cũng tiếp xúc với các hóa chất này trong môi trường nội địa của họ vì sự phổ biến của chúng trong các vật dụng gia đình thông thường. Các nghiên cứu ở Canada đã tìm thấy nồng độ PBDEs đáng kể trong các loại thực phẩm phổ biến như cá hồi, thịt bò xay, bơ và phô mai. PBDEs cũng đã được tìm thấy ở mức độ cao trong bụi trong nhà, bùn thải và nước thải từ các nhà máy xử lý nước thải. Tăng mức PBDEs đã được phát hiện trong máu của động vật có vú biển như hải cẩu cảng.

    Bình xịt cứu hỏa kiểu cũ có chứa PBDEs độc hại
    Bình xịt cứu hỏa kiểu cũ có chứa PBDEs độc hại
    Bình xịt cứu hỏa kiểu cũ có chứa PBDEs độc hại
    Bình xịt cứu hỏa kiểu cũ có chứa PBDEs độc hại
  11. Top 11

    Radon

    Radon là một nguyên tố hóa học thuộc nhóm khí trơ trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Rn và có số nguyên tử là 86. Radon là khí hiếm phóng xạ không màu, không mùi, là sản phẩm phân rã của radium. Ở ngoài trời, khí radon được pha loãng bởi không khí trong lành, vì vậy nó không phải là mối nguy hại.


    Nhưng radon có thể thấm vào một nhà hoặc xây dựng thông qua sàn nhà bẩn hoặc vết nứt trong nền tầng hầm nó có thể đạt đến mức độ không an toàn, nhà cửa hoặc các tòa nhà vì thấm vào tầng hầm thông gió kém.


    Thở trong khí radon có thể gây tổn hại tế bào lót phổi. Tiếp xúc với radon làm tăng nguy cơ ung thư phổi, radon là nguyên nhân hàng đầu của bệnh ung thư phổi ở người không hút thuốc và nguyên nhân thứ hai đến đến ung thư phổi ở những người hút thuốc.


    Nguy cơ phát triển ung thư phổi ở những người phụ thuộc vào bao nhiêu radon một người tiếp xúc cũng như hút thuốc. Nguy cơ từ radon cao hơn rất nhiều ở những người hút thuốc hơn so với những người bình thường.

    Radon
    Radon
    Radon
    Radon
  12. Top 12

    Amiang

    Amiang là silicát kép của Can xi (Ca) và Magie (Mg), chứa SiO2 có trong tự nhiên. Amiang gồm 02 nhóm: (a) Nhóm Serpentine: Chrysotile (Amiang trắng) có dạng xoắn và cũng là loại sợi Amiang duy nhất còn tiêu thụ thương mại trên thị trường hiện nay.


    Trong khi nhiều quốc gia phát triển đã cấm sử dụng và tiêu thụ mọi hình thức Amiang thì một số quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển và ở Việt Nam Amiang trắng vẫn tiếp tục được sử dụng; (b) Nhóm Amphibole gồm: Actinolite, Amosite (Amiang nâu), Crocidolite (Amiang xanh), Tremolite, Anthophylite. Nhóm sợi Amphibole có cấu tạo dạng thẳng, hình kim, gọi chung là Amiang màu đã bị cấm sử dụng ở nhiều nước trên thế giới và không còn lưu thông từ cách đây 20 năm.


    Đây là nhóm khoáng chất có trong tự nhiên. Amiang được sử dụng rộng rãi trong vật liệu xây dựng và nhiều ngành công nghiệp, tiếp xúc với sợi amiang trong không khí mà con người thở làm tang nguy cơ ung thư phổi.


    Nguy cơ tiếp xúc với amiang cao nhất đối với những người làm việc với amiang, như thợ mỏ hay những người làm việc với amiang trong sản xuất. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự kết hợp của việc hút thuốc và tiếp xúc với amiang là đặc biệt nguy hiểm. Người tiếp xúc với amiang và hút thuốc cũng có nguy cơ lớn hơn phát triển ung thư phổi.

    Amiang
    Amiang
    Amiang
    Amiang
  13. Hợp chất hữu cơ fomanđêhít (formaldehyde) (còn được biết đến như là mêtanal), ở điều kiện bình thường là một chất khí có mùi hăng mạnh. Nó là anđêhít đơn giản nhất. Công thức hóa học của nó là H2CO.


    Một số sản phẩm gia dụng, từ gỗ dán cho đến một số loại vải đều chứa formaldehyde. Các nghiên cứu trên chuột thí nghiệm và những người làm việc trong môi trường có formaldehyde cho thấy chất này có khả năng gây ung thư trên cả cơ thể chuột và người.


    Do nhựa fomanđêhít được sử dụng nhiều trong các vật liệu như gỗ dán, thảm, và xốp cách điện cũng như do các nhựa này sẽ thải fomanđêhít ra rất chậm theo thời gian nên fomanđêhít là một trong các chất gây ô nhiễm không khí trong nhà. Ở nồng độ trên 0,1 mg/kg không khí, việc hít thở phải fomanđêhít có thể gây ra các kích thích mắt và màng nhầy, làm chảy nước mắt, đau đầu, cảm giác nóng trong cổ họng và khó thở. Phơi nhiễm fomanđêhít lớn hơn, ví dụ do uống phải các dung dịch fomanđêhít, là nguy hiểm chết người. Fomanđêhít được chuyển hóa thành axít formic trong cơ thể, dẫn đến tăng hoạt động của tim, thở nhanh và nông, giảm thân nhiệt, hôn mê hoặc dẫn đến chết người. Những người ăn uống nhầm phải fomanđêhít cần được chăm sóc y tế ngay.


    Trước khi mua bất kỳ sản phẩm gỗ hoặc đồ nội thất cho ngôi nhà của mình, bạn hãy thử tìm hiểu xem chúng có chứa formaldehyde hay không. Bạn cũng nên sử dụng máy điều hòa không khí hoặc máy hút ẩm để điều hòa không khí trong nhà.

    Formaldehyde
    Formaldehyde
    Formaldehyde
    Formaldehyde
  14. Rượu sau khi vào cơ thể sẽ chuyển hóa thành Axetaldehyde. Chất này làm tổn thương và phá hủy DNA ở niêm mạc, họng… gây ung thư vòm họng, ung thư thực quản,…


    Ngoài ra rượu còn gây kích thích hoặc cản trở hoạt động của các hormon và các chất trong cơ thể làm rối loạn hoạt động của chúng, tổn thương gan, DNA,… dẫn tới ung thư gan, ung thư vú,…Càng uống nhiều bia rượu, tỷ lệ mắc bệnh ung thư càng cao, đặc biệt tăng nguy cơ mắc các bệnh ung thư đầu cổ, thực quản, vú, gan và trực tràng.


    Một trong những lí do này có thể là do các chất hóa học gây ung thư được sản sinh khi bia, rượu và đồ uống có cồn nói chung được pha chế. Các chuyên gia cho rằng phụ nữ không nên uống nhiều hơn 1 đơn vị đồ uống/ngày, còn đàn ông không quá 2.


    Mặc dù etanol ( rượu) không phải là chất độc có độc tính cao, nhưng nó có thể gây ra tử vong khi nồng độ cồn trong máu đạt tới 0,4%. Nồng độ cồn tới 0,5% hoặc cao hơn nói chung là dẫn tới tử vong. Nồng độ thậm chí thấp hơn 0,1% có thể sinh ra tình trạng say, nồng độ 0,3-0,4% gây ra tình trạng hôn mê. Tại nhiều quốc gia có luật điều chỉnh về nồng độ cồn trong máu khi lái xe hay khi phải làm việc với các máy móc thiết bị nặng, thông thường giới hạn dưới 0,05% tới 0,08%. Rượu mêtylic hay metanol là rất độc, không phụ thuộc là nó vào cơ thể theo cách nào (da, hô hấp, tiêu hóa).

    Hóa chất trong rượu
    Hóa chất trong rượu
    Hóa chất trong rượu
    Hóa chất trong rượu
  15. 3-MCPD và 1,3 -DCP là các chất gây ung thư do biến đổi gen có trong nước tương, xì dầu công nghiệp. Nước tương có chứa hóa chất gây ung thư.


    3-MCPD (3-monochloropropane-1,2-diol) và1,3-DCP (1,3-dichloro-2-propanol) thuộc trong nhóm chlorapropanols. Nhóm này thường hiện diện trong việc dùng hóa học để chế biến thức ăn. Chất hóa học được gọi là acid chlohydric, dùng để thủy phân protein trong thực vật, thường được gọi là HVP (acid-hydrolysed vegetable protein-HVP).


    Trong phản ứng thủy phân trên, chất chloride hợp với chất béo (lipids) dưới nhiệt độ tạo thành nhóm chloropropanols ở trên. Vì thế, sau một thời gian nghiên cứu tác dụng của chúng trên sức khỏe, European Commission's Scientific Committee of Food (SCF) đã xếp 3-MCPD và 1,3-DCP vào loại gây ra ung thư (genotoxic carcinogen).


    3-MCPD sinh ra trong quá trình thủy phân đậu nành bằng acid clohydric đậm đặc trong công nghệ sản xuất nước tương, xì dầu hiện đại. Ngoài ra 3-MCPD còn được tìm thấy trong bánh mỳ, bánh quy, các loại thực phẩm quay rán, nướng,…Nếu hàm lượng 3-MCPD có trong sản phẩm lớn hơn 1mg/kg thì có thể tạo thành 1,3-DCP và 1,3-DCP.

    Chất 3-MCPD và 1,3-DCP
    Chất 3-MCPD và 1,3-DCP
    Chất 3-MCPD và 1,3-DCP
    Chất 3-MCPD và 1,3-DCP




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy