Top 10 Ngôi sao đẳng cấp Thế giới được Louis Van Gaal phát hiện

Nguyễn Huy Vũ 94 0 Báo lỗi

Những cầu thủ trẻ của Manchester United mới đây đã được cả thế giới biết đến như Marcus Rashford, Timothy Fosu-Mensah hay Anthony Martial. Tất cả những cầu thủ ... xem thêm...

  1. Clarence Seedorf sinh ngày 1 tháng 4 năm 1976 tại Paramaribo, Suriname, là cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan và cựu huấn luyện viên của câu lạc bộ AC Milan. Anh là người đầu tiên và duy nhất cho đến nay, từng đoạt 4 chức vô địch UEFA Champions League dưới 3 màu áo khác nhau: Ajax (1995), Real Madrid (1998), và AC Milan (2003, 2007). Ngoài ra, Seedorf là cầu thủ châu Âu đầu tiên đoạt được Intercontinental Cup (nay gọi là FIFA Club World Cup) 2 lần với 2 câu lạc bộ khác nhau (Madrid 1998 và Milan 2007). Anh từng chơi cho Sampdoria và Internazionale. Seedorf bắt đầu sự nghiệp trong vai trò một tiền vệ cánh phải tại Ajax Amsterdam vào đầu thập niên 1990. Anh đá trận bóng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 29 tháng 11 năm 1992, trong trận đấu với FC Groningen khi mới 16 tuổi 242 ngày và là cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử của Ajax từ trước đến nay. Trong giai đoạn đầu, anh đã dẫn dắt Ajax chiến thắng giải Eredivisie năm 1994 và 1995. Anh cũng là cầu thủ chủ chốt làm nên chức vô địch UEFA Champions League năm 1995 của Ajax. Mùa hè năm 1995, với những thể hiện của mình, anh được mời đến Sampdoria và chơi ở đó một mùa giải, ghi được 3 bàn thắng.


    Seedorf từng chơi tại Euro 1996, World Cup 1998, Euro 2000 và Euro 2004. Tuy nhiên, phần lớn ý kiến cho rằng sự nghiệp quốc tế của anh còn có thể kéo dài hơn nếu như không có quá nhiều những phen chống đối và bất bình với ban lãnh đạo. Một trong số đó có thể tính là bất bình với Marco van Basten, đã khiến ông gạch tên Seedorf khi ông lên nhậm chức huấn luyện viên của Hà Lan sau Euro 2004. Vì vậy anh không chơi trận nào tại vòng loại World Cup 2006 và Hà Lan cũng không vượt qua vòng này. Vào ngày 12 tháng 11 năm 2006, Seedorf lại được gọi vào đội, lần đầu tiên kể từ tháng 6 năm 2004, để thay thế Wesley Sneijder bị chấn thương. Anh thi đấu đủ 90 phút trong trận giao hữu hoà 1 - 1 với Anh. Anh trở lại đội hình và thi đấu thêm vài trận nữa. Tuy nhiên, trong 2 trận đấu với Romania (hòa 0 - 0 trên sân nhà) và Slovenia (thắng 1 - 0 sân khách), van Basten chỉ cho anh đá 4 đến 6 phút mỗi trận. Seedorf phát biểu với giới truyền thông vào tháng 12 năm 2007: "anh cống hiến và cống hiến, nhưng khi trở lại anh không nhận được gì". Tại tuyển quốc gia, có nhiều người mà Van Basten thích sử dụng để thay thế cho Seedorf đó là Rafael van der Vaart, Wesley Sneijder và Robin van Persie.

    Clarence Seedorf
    Clarence Seedorf
    Chiêm ngưỡng tài năng của Seedorf
    Chiêm ngưỡng tài năng của Seedorf

  2. Xavier Hernández sinh ngày 25 tháng 1 năm 1980, thường được biết tới với tên Xavi, là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha. Anh hiện là huấn luyện viên câu lạc bộ Al Sadd của Qatar. Anh được coi là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới. Anh đã dành trọn phần lớn sự nghiệp thi đấu của mình với câu lạc bộ Barcelona. Anh được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá châu Âu 2008 và là một trong năm cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mùa giải 2007 - 2008 theo bình chọn của FIFA. Tổng cộng anh đã có 104 lần khoác áo đội tuyển Tây Ban Nha, đoạt danh hiệu vô địch châu Âu 2008 và World Cup 2010, vô địch châu Âu 2012. Xavi là một sản phẩm của lò đào tạo trẻ La Masia của F.C. Barcelona và đã dành cả cuộc đời chơi bóng tại sân Camp Nou từ năm lên 11 tuổi. Anh nhanh chóng vượt qua các cấp độ đội trẻ và đội dự bị và đã từng là cầu thủ chủ chốt trong đội hình Barcelona B của Jordi Gonzalvo vô địch giải hạng ba. Sự tiến bộ vượt bậc đã giúp anh có trận đấu ra mắt vào ngày 18 tháng 8 năm 1998 ở trận Siêu cúp Tây Ban Nha, trận này anh ghi bàn vào lưới RCD Mallorca. Anh nhanh chóng trở thành thành viên quan trọng trong đội hình của Louis van Gaal vô địch La Liga.


    Xavier Hernández được coi là truyền nhân của Josep Guardiola trong phòng thay đồ của Barca và sau khi Guardiola rời đội bóng, Xavi trở thành tiền vệ kiến thiết của đội bóng. Kể từ mùa giải 2004 - 2005, anh đã trở thành đội phó đội bóng. Ở mùa giải 2005 - 2006, Xavi dính chấn thương đầu gối trái khi tập luyện; anh đã phải ngồi ngoài trong 5 tháng, bỏ lỡ phần lớn mùa giải, nhưng trở lại vào tháng 4 và ngồi dự bị trong trận chung kết cúp C1 2006. Mùa giải 2008-09 là mùa giải thành công nhất của Xavi với màn trình diễn cùng những danh hiệu. Anh là thành viên chính trong cú ăn ba của Barcelona, thi đấu xuất sắc trong cả ba giải đấu: Anh ghi bàn thứ 4 trong trận thắng 4 - 1 ở chung kết Copa del Rey gặp Athletic Bilbao. Ở La Liga, anh có rất nhiều màn trình diễn xuất sắc, nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là trong trận thắng 6 - 2 ở trận El Clasico trước Real Madrid vào ngày 2 tháng 5. Anh kiến tạo 4 trong 6 bàn (một cho Carles Puyol, một cho Thierry Henry và 2 cho Lionel Messi) và màn trình diễn trong chiến thắng này đã đưa Barcelona tới ngôi vô địch. Cuối cùng, Xavi giúp Barcelona vô địch cúp C1 năm 2009 sau khi đánh bại Manchester United với tỉ số 2 - 0, kiến tạo bàn thứ 2 cho Leo Messi đánh đầu ở phút 69 và cũng suýt có được bàn thắng sau cú đá phạt dội cột dọc. Xavi được bầu là "tiền vệ xuất sắc nhất cúp C1" cho những đóng góp của anh cho thành công của Barcelona ở mùa giải 2008 - 2009. Xavi là người kiến tạo nhiều nhất La Liga với 20 lần kiến tạo. Anh cũng là người kiến tạo nhiều nhất cúp C1 với 7 lần.

    Xavi Hernandez
    Xavi Hernandez
    Xavi Hernandez
    Xavi Hernandez
  3. Patrick Stephan Kluivert sinh 1 tháng 7 năm 1976 ở Amsterdam, là một cầu thủ bóng đá quốc tế người Hà Lan. Mẹ của anh từ Curaçao và cha của anh từ Suriname. Kluivert trưởng thành từ lò đào tạo tài năng trẻ của câu lạc bộ Ajax Amsterdam, anh gia nhập câu lạc bộ khi còn là học sinh. Năm anh 19 tuổi, anh đã trở thành trụ cột của CLB Ajax Amsterdam và Đội tuyển Hà Lan. Trong trận chung kết Cúp C1 châu Âu, giữa Ajax và AC Milan. Ajax giành chiến thắng 1-0 nhờ bàn thắng duy nhất của Kluivert. Năm 2004, anh có tên trong bảng xếp hạng của FIFA 100, đây là bảng danh sách gồm 125 cầu thủ vĩ đại nhất còn sống, được chọn bởi Pelé, là một phần của lễ kỉ niệm một trăm năm của FIFA.


    HLV Louis Van Gaal để cho cầu thủ mới 18 tuổi Patrick Kluivert đá trận chung kết Champions League 1994 - 1995, và càng bất ngờ hơn khi chàng trai trẻ đó ghi bàn thắng quyết định vào lưới của Milan. Để rồi sau này, khi chuyển sang dẫn dắt Barcelona, chiến lược gia này vẫn quyết lôi kéo cậu học trò cưng Kluivert đi cùng. Và trong 6 năm chơi cho gã khổng lồ xứ Catalan, từ năm năm 1998 đến 2004, Kluivert đã có 120 bàn thắng sau 255 lần ra sân. Kluivert được nhắc đến như huyền thoại của bóng đá Hà Lan.

    Patrick Kluivert
    Patrick Kluivert
    Patrick Kluivert
    Patrick Kluivert
  4. Carles Puyol i Saforcada sinh ngày 13 tháng 4 năm 1978 tại Lleida, Catalunya, là một cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha đã giải nghệ. Anh chủ yếu chơi ở vị trí trung vệ và là đội trưởng lâu năm cho câu lạc bộ duy nhất mà anh gắn bó trong suốt sự nghiệp thi đấu của mình - Barcelona sau khi tiếp quản từ Luis Enrique vào tháng 8 năm 2004 và đã chơi trong gần 600 trận đấu chính thức cho đội bóng và giành chiến thắng 21 danh hiệu lớn, đặc biệt là 6 chức vô địch La Liga và 3 chức vô địch UEFA Champions League. Anh được biết đến như một trong số các hậu vệ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới. Ở cấp độ quốc gia, Puyol đã khoác áo đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha 100 lần, và là nhân tố không thể thiếu trong đội hình đã giành được vinh quang tại Euro 2008 và World Cup 2010. Trong trận bán kết gặp đội tuyển Đức tại World Cup năm đó, anh đã ghi bàn thắng duy nhất giúp đội nhà lọt vào trận chung kết.

    Puyol
    là mẫu cầu thủ chơi rắn, quyết liệt nhưng đa năng. Anh có thể chơi ở vị trí trung vệ, hậu vệ cánh hoặc tiền vệ thủ. Nhờ quyết định gắn bó toàn bộ sự nghiệp của mình cho câu lạc bộ, anh luôn giành được sự yêu mến của người hâm mộ Barcelona. Puyol cùng đội tuyển Tây Ban Nha giành huy chương bạc tại Thế vận hội mùa hè 2000, tham gia giải vô địch bóng đá thế giới 2002, giải vô địch bóng đá châu Âu 2004. Tinh thần lăn xả mỗi khi ra sân của anh có lẽ hình thành từ lúc anh còn chơi ở vị trí thủ môn trong đội trẻ La Pobla (Segur). Một chấn thương vai sau đó buộc anh phải từ bỏ vị trí này. World Cup 2010 là giải đấu thành công với Tây Ban Nha nói chung và cá nhân Puyol nói riêng. Với lối chơi quyết liệt và thông minh anh đã giúp Tây Ban Nha lập kỷ lục là một trong 2 đội bóng để lọt lưới ít nhất tại một kỳ World Cup (2 bàn thua) và có bàn thắng quyết định trong trận bán kết với Đức đưa Tây Ban Nha vào trận chung kết tiếp và vô địch.

    Carles Puyol
    Carles Puyol
    Carles Puyol
    Carles Puyol
  5. Alaba sinh ra tại Viên và bắt đầu sự nghiệp của mình tại SV Aspern, một câu lạc bộ địa phương tại Aspern, trước khi đến đội trẻ của FK Austria Wien vào năm 10 tuổi. Tháng 4 năm 2008, anh đã có mặt trên băng ghế dự bị của đội hình một tại Giải vô địch bóng đá Áo. Anh đã có năm trận cho đội dự bị của Austria Wien trước khi chuyển đến Bayern München vào mùa hè năm 2008. Anh bắt đầu thi đấu cho các đội U-17 và U-19 của Bayern München trước khi được lên chơi tại đội dự bị của đội bóng này trong mùa giải 2009 - 2010. Anh có trận đấu đầu tiên tại 3. Liga vào tháng 8 năm 2009 và có bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp cho FC Bayern München II vào ngày 29 tháng 8 năm 2009. Trong mùa giải 2009 - 2010, Alaba có tên trong danh sách câu lạc bộ Bayern München tham dự UEFA Champions League. Vào tháng 1 năm 2010, anh được phép tập luyện cùng với đội hình một của Bayern trong giai đoạn còn lại của mùa giải 2009 - 2010 cùng với Diego Contento và Mehmet Ekici.

    Ngày 10 tháng 2 năm 2010, anh được vào sân ở phút thứ 59 thay cho Christian Lell trong trận đấu với SpVggGreutherFürth tại Cúp bóng đá Đức (DFB-Pokal), để trở thành cầu thủ trẻ nhất của Bayern ra sân tại một giải đấu ở 17 tuổi và 232 ngày. Trong trận này, anh đã có đường chuyền để Franck Ribéry nâng tỉ số lên 3 - 2 cho Bayern trong chiến thắng chung cuộc 6 - 2. Sau đó 1 tháng, vào lúc 17 tuổi, 8 tháng và 13 ngày, anh có trận đấu đầu tiên tại UEFA Champions League với ACF Fiorentina. Tháng 1 năm 2011, Alaba đến TSG 1899 Hoffenheim theo hợp đồng cho mượn đến hết mùa giải 2010 - 2011. Tại đây anh có bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga trong trận hòa 2-2 với FC St. Pauli. Alaba trở về Bayern vào đầu mùa giải 2011 - 2012 và bắt đầu có được vị trí chính thức. Ngày 23 tháng 10 năm 2011, anh có bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga cho Bayern trong trận thua 1 - 2 trước Hannover 96. Anh có mặt trong trận bán kết UEFA Champions League với Real Madrid ngày 25 tháng 4 năm 2012 và chính là người sút thành công quả phạt đền đầu tiên trong loạt sút luân lưu mở ra chiến thắng chung cuộc cho Bayern. Tuy nhiên với chiếc thẻ vàng ngay đầu trận, anh đã không thể tham dự trận chung kết sau đó với Chelsea.

    David Alaba
    David Alaba
    David Alaba
    David Alaba
  6. Andrés Iniesta Luján sinh ngày 11 thâng 5 năm 1984, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm và là đội trưởng của câu lạc bộ J1 League Vissel Kobe. Thường được coi là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá và được biết đến nhiều là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại, Iniesta dành phần lớn sự nghiệp tại Barcelona, nơi anh là đội trưởng trong ba mùa giải. Trong suốt sự nghiệp cầu thủ, Iniesta được mệnh danh là "El Ilusionista" (Ảo thuật gia), "El Cerebro" (Bộ não), "El Anti-Galáctico" (một cách chơi chữ của các cầu thủ Real Madrid, Los Galácticos )," El Caballero Pálido" (Hiệp Sĩ trắng). Chơi bên cạnh Xavi nhiều năm đó là Iniesta. Những thành công vang dội của Barcelona hay đội tuyển Tây Ban Nha không thể không nhắc đến 2 cái tên này. Iniesta thi đấu khéo léo và có phần nhanh nhẹn hơn Xavi. Ngày 29/10/2002, Iniesta có trận đấu đầu tiên cho đội 1 của Barca khi gã khổng lồ xứ Catalan đến làm khách trên sân của Club Brugge.


    Iniesta đến từ Fuentealbilla, một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Albacete, Castile-La Mancha, nơi anh chủ yếu chơi futsal do không có sân bóng trong làng. Năm 12 tuổi, khi thi đấu cho Albacete Balompié ở một giải đấu trẻ đá sân bảy người ở Albacete, anh đã thu hút sự chú ý của các tuyển trạch viên từ các câu lạc bộ trên khắp Tây Ban Nha. Cha mẹ anh biết huấn luyện viên đội trẻ của Barcelona, Enrique Orizaola và ông đã thuyết phục họ xem xét gửi Iniesta đến học viện đào tạo trẻ của Barcelona. Iniesta đã đến đó cùng cha mẹ và thăm La Masia, lò đào tạo nơi câu lạc bộ nuôi dưỡng các cầu thủ trẻ của mình, chuyến đi đó đã thuyết phục họ ghi danh Iniesta vào hàng ngũ trẻ của Barcelona. Sau khi chứng kiến Andres ghi bàn trong trận chung kết đội trẻ, Pep Guardiola đã nói với tiền vệ đồng hương Xavi rằng: "Cậu sẽ khiến tôi phải giải nghệ. Nhưng cậu nhóc này sẽ khiến tất cả chúng ta về vườn".

    Andres Iniesta
    Andres Iniesta
    Andres Iniesta
    Andres Iniesta
  7. Edgar Steven Davids sinh 13 tháng 3 năm 1973 ở Paramaribo, Suriname, là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan. Anh chơi ở vị trí tiền vệ, là người làm việc năng nổ, nhiệt huyết. Anh đã chơi cho Ajax từ năm 18 tuổi. Anh cũng chơi cho các câu lạc bộ A.C. Milan, Juventus FC, FC Barcelona, Internazionale và Tottenham Hotspur. Các thành tích anh có tại các giải bóng đá lớn là: Vô địch cúp C3 châu Âu năm 1991 (Ajax Amsterdam), Vô địch cúp C1 châu Âu năm 1996 (Juventus)...Tại France 98, anh là một trong những tiền vệ tấn công xuất sắc nhất thế giới. Davids bị mắc bệnh tăng nhãn áp, làm cho anh phải đeo kính (viền màu đen) bảo vệ khi chơi bóng. Với mái tóc cuốn lọn dài và cặp kính bảo vệ đặc biệt làm cho Davids là một trong những cầu thủ bóng đá dễ nhận ra nhất so với những người chơi bóng cùng anh.


    Anh bắt đầu nghề cầu thủ tại Câu lạc bộ Ajax vào năm 1991, trong trận đội nhà của anh thắng 5 - 1 đội của RKC Waalwijk. Anh đến Ý năm 1996 để chơi cho A.C. Milan. Anh không được ra trận nhiều ở câu lạc bộ này và di chuyển đến Juventus FC vào tháng 12 năm 1997, câu lạc bộ này là đối thủ của A.C. Milan. Tại đây anh mới có dịp được thể hiện tài năng của mình. Anh vừa trở lại khoác áo đội bóng giải ngoại hạng Anh Portsmouth. Edgar Davids ban đầu chơi ở vị trí tiền vệ chạy cánh, nhưng HLV Van Gaal không nghĩ vậy. Ông quyết định đẩy Davids đá bó vào trong như một tiền vệ trung tâm. Để rồi sau một thời gian thích nghi, cầu thủ có biệt danh "Pitbull" đã cùng với Clarence Seedorf đã tạo thành cặp đôi khiến cả châu Âu khiếp sợ khi sở hữu lối chơi đầy sức mạnh, tốc độ và máu lửa.

    Edgar Davids
    Edgar Davids
    Edgar Davids
    Edgar Davids
  8. Toni Kroos sinh ngày 4 tháng 1 năm 1990 ở Greifswald, là một cầu thủ bóng đá người Đức hiện đang chơi cho câu lạc bộ Real Madrid ở vị trí tiền vệ. Năm 2006, anh chính thức gia nhập lò đào tạo của Bayern München, tại đây Kroos đã bộc lộ tài năng thiên bẩm của mình khi anh được đôn lên đội 1 khi mới 17 tuổi, nhưng anh chỉ thường xuyên được sử dụng sau khi trở về từ Bayer Leverkusen theo dạng cho mượn. Anh đã giành được khá nhiều danh hiệu cùng Bayern München, bao gồm 3 chức vô địch Bundesliga và 1 chức vô địch Champions League năm 2013. Kroos được báo chí cũng như các cầu thủ đàn anh ca ngợi là một tiền vệ tấn công với đầy đủ phẩm chất cần thiết. Anh bắt đầu sự nghiệp thi đấu quốc tế năm 2010. Sau khi giành chức vô địch World Cup 2014 cùng đội tuyển Đức, Kroos đã xác nhận việc anh sẽ gia nhập Real Madrid trong kì chuyển nhượng mùa hè này, với mức giá được cho là 30 triệu Euro.

    Mùa giải năm 2007 - 2008, Kroos ra sân thi đấu cho FC Bayern München và anh là người có 2 đường kiến tạo thành bàn góp công trong thắng lợi 5 - 0 trước Energie Cottbus. Anh trở thành cầu thủ trẻ tuổi nhất từng thi đấu cho câu lạc bộ ở độ tuổi 17. Ngày 25 tháng 10, là trận đấu đầu tiên của anh chơi trong đấu trường danh giá nhất Châu âu, UEFA Champion League, với một pha kiến tạo thành bàn giúp Bayern có chiến thắng nhọc nhằn với tỉ số 1 - 0 trước Sao Đỏ Beograd. Khép lại mùa giải đầu tiên chơi cho câu lạc bộ với 20 lần ra sân và 6 bàn thắng ghi được, anh là một tài năng đáng được chờ đợi khi mới 17 tuổi. Ở Real Madrid, ngay mùa giải đầu tiên năm 2014 - 2015, mặc dù thi đấu rất thành công nhưng anh cùng câu lạc bộ chỉ vỏn vẹn giành được 2 chiếc cup nhỏ là UEFA Super Cup và FIFA Club World Cup năm 2014. Mùa giải năm 2015-2016, mặc dù Real Madrid khởi đầu không được tốt nhưng Kroos và các đồng đội đã có cho mình chức vô địch UEFA Champions League 2015 - 2016 danh giá, đánh dấu cột mốc Undecima lịch sử cùng câu lạc bộ.

    Toni Kroos
    Toni Kroos
    Toni Kroos
    Toni Kroos
  9. Thomas Müller sinh ngày 13 tháng 9 năm 1989, hay viết theo cách khác Thomas Mueller là một cầu thủ bóng đá người Đức. Anh thi đấu dựa trên tư duy chiến thuật và khả năng chạy chỗ, tìm kiếm khoảng trống được đánh giá rất cao cùng với đó là lối chơi âm thầm, khả năng dứt điểm rất tốt. Biệt danh của anh "Reumdauter" dịch tiếng Việt là "Kẻ cắp không gian", hiện Muller đang chơi cho câu lạc bộ Bayern München và Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức. Là một sản phẩm của lò đào tạo trẻ Bayern München, anh bắt đầu có mặt ở đội một từ mùa giải 2009 - 2010 và có được cú đúp danh hiệu vô địch quốc nội và vào đến chung kết UEFA Champions League ngay mùa đầu tiên. Trong mùa giải 2012 - 2013, mùa giải mà Bayern giành cú ăn ba, Müller ghi được tổng cộng 23 bàn. Müller được triệu tập vào đội tuyển Đức từ năm 2010. Tại World Cup 2010, anh ghi được 5 bàn thắng và có 3 pha kiến tạo, thành tích giúp anh có được danh hiệu Chiếc giày Vàng, Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất giải và đội tuyển Đức đứng thứ ba chung cuộc. Bốn năm sau đó tại World Cup 2014 Brasil, anh ghi được năm bàn thắng trên hành trình đến chức vô địch thế giới lần thứ tư của đội tuyển Đức đồng thời anh cũng giành Chiếc giày Bạc.


    Muller gia nhập FC Bayern München vào năm 2000 khi mới 10 tuổi, và đã thi đấu cho các lứa đội trẻ, rồi có trận ra mắt cho đội dự bị vào tháng 3 năm 2008, ở một trận đấu trong khuôn khổ Regionalliga gặp SpVgg Unterhaching. Anh ghi bàn đầu tiên và có hai lần nữa được ra sân ở mùa giải 2007 - 2008, trước khi phải ngồi ngoài vì chấn thương. Mùa giải tiếp đó, đội Bayern II được chơi ở giải hạng 3 và Müller chứng tỏ vai trò của mình với việc chơi 32 trên tổng số 38 trận, ghi 15 bàn, trở thành cầu thủ đứng thứ 5 trong số top ghi bàn. Anh cũng được chơi ở đội I, xuất hiện trong các trận giao hữu trước mùa giải, và có trận thi đấu đầy đủ đầu tiên vào ngày 15 tháng 8 năm 2008 ở Bundesliga gặp Hamburger SV. Anh có 3 lần nữa ra sân ở Bundesliga trong mùa giải đó, và có trận ra mắt ở UEFA Champions League vào ngày 10 tháng 3 năm 2009, vào sân thay Bastian Schweinsteiger ở phút 72 trong trận thắng 7 - 1 trước Sporting Lisbon. Anh ghi bàn cuối cùng của Bayern và ấn định kết quả 12 - 1 tổng tỉ số. Müller đã có tiếng nói quan trọng hơn trong đội hình I của Bayern ở phần đầu mùa giải 2009 - 2010, vào tháng 8 năm 2009 anh được gọi vào đội tuyển U21 Đức lần đầu tiên, có trận ra mắt trong trận thắng 3 - 1 trước Thổ Nhĩ Kỳ. Vào ngày 12 tháng 9 năm 2009, Müller vào sân từ ghế dự bị trong trận gặp Borussia Dortmund và ghi hai bàn trong chiến thắng 5 - 1. Ba ngày sau, Muller tiếp tục ghi bàn trong trận đấu ở Cúp C1 gặp Maccabi Haifa.

    Thomas Mueller
    Thomas Mueller
    Thomas Muller
    Thomas Muller
  10. Bastian Schweinsteiger sinh ngày 1 tháng 8 năm 1984 tại Kolbermoor, Bayern, Đức, là cựu cầu thủ bóng đá người Đức thi đấu ở vị trí tiền vệ. Anh đã trải qua 13 mùa giải ở Bayern München, anh ra sân khoảng 500 trận và ghi được 67 bàn thắng. Tại đây, Bastian Schweinsteiger giành được 8 danh hiệu vô địch Bundesliga, 7 danh hiệu DFB-Pokal, một danh hiệu UEFA Champions League, một danh hiệu FIFA Club World Cup, 2 danh hiệu DFB-Ligapokal. Anh gia nhập Manchester United từ năm 2015 đến năm 2017 và bến đỗ cuối cùng của sự nghiệp là Chicago Fire cho đến khi giải nghệ. Từ khi ra mắt đội tuyển quốc gia Đức từ năm 2004 đến năm 2016, anh ra sân 121 trận cho tuyển Đức, ghi được 24 bàn thắng. Anh được gọi vào đội tuyển Đức tham dự 3 giải vô địch châu Âu và 3 giải vô địch thế giới, bao gồm cả chức vô địch World Cup 2014.

    Ngày 9 tháng 10 năm 2019, Schweinsteiger chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 29 năm thi đấu chuyên nghiệp. Schweinsteiger ký hợp đồng thi đấu cho ở đội trẻ Bayern vào ngày 8 tháng 7 năm 1998. Ngoài khả năng về bóng đá, anh còn có khả năng trượt tuyết rất giỏi nên anh đã phải lựa chọn giữa vận động viên trượt tuyết và cầu thủ bóng đá khi anh 14 tuổi và cuối cùng anh đã chọn bóng đá. Tháng 7 năm 2002, anh đoạt giải tài năng trẻ của bóng đá Đức và được đưa vào đội hình dự bị của Bayern. Sau 2 năm thi đấu ở đội hình dự bị, huấn luyện viên Ottmar Hitzfeld cho anh vào sân từ băng ghế dự bị trong trận gặp RC Lens vào tháng 11 năm 2002 tại UEFA Champions League và trong lần ra sân đầu tiên này anh đã chuyền bóng cho Markus Feulner ghi bàn. Schweinsteiger ký hợp đồng thi đấu chuyên nghiệp cho Bayern München từ mùa giải 2002/2003 và thi đấu 14 trận trong mùa giải. Đây cũng là mùa giải mà Bayern giành được cú đúp vô địch Bundesliga và cúp bóng đá Đức. Mùa giải tiếp theo anh thi đấu 26 trận tại Bundesliga và có bàn thắng đầu tiên cho Bayern vào tháng 9 năm 2003 trong trận gặp VfL Wolfsburg.

    Bastian Schweinsteiger
    Bastian Schweinsteiger
    Bastian Schweinsteiger
    Bastian Schweinsteiger



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy