Top 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" của Nguyễn Ái Quốc
Hồ Chí Minh (1890- 1969) không chỉ có sự nghiệp cách mạng, Người còn để lại một số di sản văn học quý giá, xứng đáng là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. ... xem thêm...Văn bản "Thuế máu" được viết bằng tiếng Pháp vào khoảng những năm 1921-1925, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1925 tại Pháp, ở Việt Nam vào năm 1946. Đoạn trích tố cáo bộ mặt giả dối, thủ đoạn của chính quyền thực dân Pháp trong việc biến người dân thuộc địa thành vật hy sinh cho lợi ích của chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa tàn khốc. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm mà Tolist đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 1
Bản án chế độ thực dân Pháp của lãnh tụ cách mạng Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Pa-ri năm 1925 và xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục có tựa đề Gửi thanh niên Việt Nam, nội dung tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... đồng thời phản ánh tình cảnh tủi nhục khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới.
Từ đó, bước đầu tác giả vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để các dân tộc tự giải phóng, giành quyền độc lập. Sự ra đời của Bản án chế độ thực dân Pháp đã giáng một đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân ngay tại sào huyệt của chúng và chỉ ra con đường cách mạng cùng tương lai tươi sáng cho các dân tộc bị áp bức.
Đầu thế kỉ XX, một số nước lớn ở châu Âu thi nhau xâm chiếm thuộc địa ở nhiều nơi trên thế giới để vơ vệt của cải và nhân lực. Chính sách cai trị của chế độ thực dân rất hà khắc, dã man nên cuộc sống nhân dân thuộc địa vô cùng cực khổ. Làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi dâng lên ngày càng mạnh mẽ. Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) mà Nguyễn Ái Quốc mỉa mai gọi là cuộc chiến tranh vui tươi thực chất là cuộc xung đột ác liệt giữa các đế quốc để tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi. Nó đẩy nhân dân lao động ở các nước tư bản và dân chúng nghèo khổ ở thuộc địa vào lò lửa chiến tranh thảm khốc.
Bản án chế độ thực dận Pháp là tác phẩm được Nguyễn Ái Quốc dành nhiều thời gian và công sức để hoàn thành. Mỗi chương của tác phẩm viết về một chủ đề và tất cả hợp thành bản cáo trạng phong phú, đanh thép về tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân, về cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa. Với thiên phóng sự điều tra này, lần đầu tiên trên thế giới, chế độ thực dân bị lên án một cách toàn diện, cụ thể, chính xác và có hệ thống. Bản án chế độ thực dân Pháp thể hiện lòng căm thù mãnh liệt những thế lực thống trị tàn bạo, đồng thời bày tỏ tình yêu thương thắm thiết những kiếp người nô lệ nghèo khổ, phản ánh ý chí chiến đấu giành độc lập, tự do cho các dân tộc thuộc địa của Nguyễn Ái Quốc. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện tài năng văn chương của tác giả qua nghệ thuật trào phúng, đả kích sắc sảo.
Thuế máu là chương đầu tiên của Bản án chế độ thực dân Pháp, ở chương này, tác giả tập trung vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa và các thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh thảm khốc để mang lại quyền lợi cho nước Pháp. Lợi dụng xương máu của những con người nghèo khổ để làm giàu, đó là một trong những tội ác ghê tởm nhất của chủ nghĩa thực dân.
Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản chất xấu xa ấy bằng những lập luận chặt chẽ và tư liệu phong phú, xác thực, nhiều hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Giọng điệu chung của bài văn là vừa kết án đanh thép vừa mỉa mai chua chát, vừa thông cảm, xót thương. Cái tên Thuế máu bao hàm nhiều ý nghĩa. Nó gợi lên số phận bi thảm của người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ.
Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chính quyền thực dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày bản chất "ăn thịt người" của bè lũ thực dân.
Phần một: Chiến tranh và người bản xứ. Ở phần này, tác giả nêu bật sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng nổ. Trước chiến tranh, người dân thuộc địa bị bọn thực dân cai trị coi là giống người hạ đẳng, ngang hàng với súc vật: ... họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, bọn thực dân cần lính, cần người tham gia chiến tranh thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do".
Tác giả đưa ra hai thái độ trái ngược hoàn toàn ấy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân trong việc biến dân thuộc địa thành vật hi sinh. Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả kích sâu cay. Số phận bi thảm của người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh phi nghĩa được tác giả miêu tả rất cụ thể: ... họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên khắp các chiến trường miền Nam nước Pháp bằng giọng văn trào lộng nhưng chất chứa cảm xúc xót xa, ngậm ngùi:
Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng... Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ... Nhiều người dân thuộc địa tuy không phải ra trận nhưng ở hậu phương, họ bị bắt buộc làm công việc rất nguy hiểm là chế tạo vũ khí phục vụ chiến tranh: Làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn "bô-sơ", nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; Họ cũng hứng chịu bệnh tật và những cái chết đau đớn, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy. Tác giả đã nêu ra một con số khủng khiếp về số người bản xứ đã bỏ mình trôn đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất: Tổng cộng cố bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.
Phần hai: Chế độ lính tình nguyện. Ở phần này, tác giả vạch trần các mánh khóe và thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân. Có thật là người dân thuộc địa tình nguyện hiến dâng xương máu cho "nước mẹ Đại Pháp" như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền hay không? Tác giả kể rằng: Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khóa, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa. Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để kẻ thù tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,... Bọn thực dân coi lính thuộc địa không phải là người mà chỉ là thứ vật liệu biết nói. Cách gọi đó tự nó đã có tác dụng tố cáo mạnh mẽ bản chất dối trá, lừa bịp và dã man của chính quyền thực dân. Những viên công sứ Pháp (đứng đầu một tỉnh) cùng bọn quan lại dưới quyền tiến hành vây bắt và cưỡng bức người dân phải đi lính, lợi dụng chuyện bắt lính để dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu:
Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ những người này chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: "đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra". Chúng sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật và đàn áp dã man nếu như dám chống đối. Tác giả đã kể ra sự thực phũ phàng là người dân thuộc địa chỉ có hai con đường: hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ còn tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính. Trong khi làm những điều độc ác như đã kể trên, chính quyền thực dân vẫn không ngừng rêu rao về tinh thần tình nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dường chỉ làm bộc lộ rõ thêm thủ đoạn lừa bịp trơ trẽn ấy: Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh "cho tổ quốc", đã trịnh trọng tuyên bố rằng: "Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ".
Tác giả mỉa mai chua chát luận điệu dối trá ấy bằng những câu hỏi tu từ: Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân "tấp nập" và "không ngần ngại"? Trong phần Chế độ lính tình nguyện, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng thực tố đối lập hoàn toàn với luận điệu bịp bợm của bọn thực dân cầm quyền để lột trần bản chất tham lam và tàn bạo của chúng trong chính sách cai trị đối với người dân thuộc địa.
Phần ba: Kết quả của sự hi sinh. Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột xương máu họ đã được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố cáo rất lớn: Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô" lẫn người "An nam-mít" mặc nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu". Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ,... trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao ? về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: "Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!"đó sao?
Mỉa mai thay, khi chiến tranh vừa chấm dứt thì các lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền cũng tự dưng im bặt (!) Những người lính từng được tâng bốc bằng bao lời lẽ hoa mĩ thì bây giờ mặc nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu" như trước đây. Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh cho chính nghĩa và công lí như lời rêu rao đối trá của lũ thực dân chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ là chế độ không hề biết đến chính nghĩa và công lí. Bộ mặt tráo trở của chính quyền thực dân bộc lộ trắng trợn qua những hành động vô nhân đạo: tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bỉ như đối với súc vật. Sau chiến tranh, người dân thuộc địa trở về vị trí hèn hạ ban đầu:
Thế là những "cựu binh" – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lí nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một,chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả. Ba phần của chương Thuế máu được sắp xếp theo trình tự thời gian trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bản chất độc ác của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột xương máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ các xứ thuộc địa cũng được phản ánh một cách chân thực và sinh động.
Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thể hiện chủ yếu qua hệ thống hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, những từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi cảm và chất chứa sức mạnh tố cáo tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân. Ngôn ngữ tác phẩm mang màu sắc trào phúng rất rõ nét. Những từ mỉa mai như; "con yêu", "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do", "lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế", "lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế", "vật liệu biết nói..." vừa phơi bày bản chất dã man của chủ nghĩa thực dân, vừa tô đậm số phận bi thảm của người dân thuộc địa.
Tác giả sử dụng rất thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông bằng cách nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để bóc trần bản chất lừa bịp vô liêm sỉ của chúng. Tác giả dùng liên tiếp các câu hỏi tu từ để phơi bày sự thật trái ngược với lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế nên không thể chối cãi. Để tăng tính thuyết phục của lí lẽ, khi cần, tác giả còn dẫn ra ý kiến của người khác hay của chính đối tượng bị đả kích. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu chung của tác phẩm, người đọc nhận ra thái độ yêu ghét rõ ràng của tác giả: căm phẫn chính quyền thực dân tàn ác và xót xa thương cảm cho thân phận người dân nô lệ của các nước thuộc địa bị bóc lột đến cả xương máu, tính mạng.
Đoạn trích Thuế máu của tác giả Nguyễn Ái Quốc đã giúp người đọc hiểu được bản chất độc ác, dã man và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chính quyền thực dân Pháp qua việc dùng người dân các xứ thuộc địa làm vật hi sinh để bảo vệ quyền lợi của chúng trong các cuộc chiến tranh tàn khốc. Tác phẩm cũng chứng minh Nguyễn Ái Quốc là một cây bút chính luận xuất sắc trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 2
Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại một người cha già của dân tộc. Người là một nhà cách mạng sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam. Là một người tài hoa , có tài văn chương, Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình, dùng văn chương để làm vũ khí chiến đấu. Nhưng tác phẩm đó đã để lại ấn tương sâu sắc trong lòng người đọc và đánh những đon mạnh vào bọn đế quốc tay sai. Trong số những tác phẩm đó được bạn bè thế giới biết đến nhiều phải kể đến tác phẩm “Thuế máu”. Tác phẩm được người viết khi đang hoạt đông cách mạng tại Pháp và là một đòn chí mạng đối với bọn đế quốc thực dân. Tác phẩm đã vạch rõ bộ mặt thật sự của quan cai trị Pháp đối với người bản xứ, chính quyền thuộc địa đã biến người dân thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ lợi ích trong các cuộc chiến tranh tàn khốc.
Tên tác phẩm là “Thuế máu” tạo lên cảm giác của các cuộc chiến tranh các cuộc tàn sát đẫm máu. Trong tác phẩm này đây chính là máu của những người dân thuộc địa bị bọn đế quốc thực dân, bị bọn tay sai áp bức bóc lột đến tận sương tủy. Đồng thời nhan đề tác phẩm cũng thể hiện thái độ tức giận, căm phẫn của tác giả khi chứng kiến dân tộc mình bị đối xử tàn nhẫn.
Trong đoạn đầu của tác phẩm tác giả đã so sánh thái độ của quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa tại hai thời điểm trước khi có chiến tranh và sau khi chiến tranh xảy ra. Trước khi chiến tranh xảy thì bị bị coi là giống người hạ đẳng , những người da đen bẩn thỉu đây là những cái tên chúng gọi người Việt Nam chúng ta một cách khinh miệt coi thường khi đó họ chỉ là những nô lệ cho tầng lớp thống trị bấy giờ. Bọn người cai trị luôn cho rằng tộc người da trắng là tộc người cao quý vì vậy chúng luôn cho rằng những tộc người khác là thấp hèn và luôn tạo ra một khoảng cách để phân biệt đối xử.
Người dân thuộc địa “giỏi lắm cũng chỉ biết kéo xe và ăn đòn của quân cai trị nhà ta”Giong nói đầy mỉa mai cho thấy thái độ khinh bỉ coi dân ta như súc vậy của bọn thực dân Pháp. Khi chiến tranh “vui tươi” xảy ra, chữ vui tươi được tác giả sử dụng để châm biếm cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất các nước đế quốc tranh giành quyền lợi. Khi đó số phận của người dân thuộc địa được thay đổi đến không ngờ. Họ được đề cao trọng vọng và được các quan phụ mẫu, quan toàn quyền lớn bè coi là “con yên” “bạn hiền”, thậm chí còn được đề bạt lân chức danh “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.
Đối với chức danh đó đánh nhẽ ra họ phải được nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa, nhưng thực chất cuộc sống của họ không hề được nâng cao mà lạ ngược lại. Như vậy đối với họ chức danh ấy vốn cũng chỉ là hữu danh vô thực không có một chút đặc quyền gì hết Với gọng điệu mỉa mai khi chỉ ra sự tương phản đã châm biếm sự thâm độc giả dối của chế độ thực dân.
Dưới ách áp bức đó của bọn thực dân, số phận người dân thuộc địa rất bi thảm và đã được nhà văn miêu tả hết sức cụ thể bằng ngòi bút tài hoa của mình. Họ không được hưởng tí nào về quyền lợi đã thế họ còn phải đột ngột xa lìa vợ con, quê hương, phải làm việc cật lực trong những kho thuốc súng ghê tởm khạc ra từng tiếng phổi, họ phơi thây trên các chiến trương châu Âu, xuống tận đáy biển bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái, bỏ xác ở những vùng miền hoang vu ở Ban-căng, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế. Kết quả là tám vạn người không bao giờ thấy mặt trời trên quê hương mình nữa. Nghe đến đấy la tự hỏi tại sao , bọn thực dân rốt cuộc có quyền gì mà lại có thể quyết đinh sống chết của hàng vạn người dân vô tội như thế?Những người dân bản xứ rốt cuộc cũng chỉ là vật hi sinh cho bạn cai trị thực dân. Đó chính là kiếp khổ đau của thân phận những người nô lệ. Tác giả đã vạch trần bộ mặt bỉ ổi của chủ nghĩa thực dân phản ánh số phận thảm thương của người dân thuộc địa.
Sau đó tác giả đã chỉ ra thủ đoạn mánh khóe của những bọn thực dân. Bọn thực dân tiến hành những cuộc lùng soát lớn trên toàn cõi đông dương và đủ các ngón xoay sở tinh vi nhất để đòi tiền. Chúng tìm đến những người khỏe mạnh những người này có thân cô thế cô chỉ chịu chết chứ không kêu cứu vào đâu được. Còn đối với những con cái nhà giàu thì họ ép cho một là đi lính hai là xì tiền ra. Đối với những người bị bắt đi lính thì một là họ bỏ trốn hai là tự làm cho mình nhiễm phải những căn bệnh nặng để không phải đi bởi đi lính đối với họ còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Khi đó để giả thích cho vấn đè này thì giọng điệu của chính phủ toàn quyền cũng rất bịp bợm. Chúng dùng sự hứa hẹn để lừa phỉnh người lính như ban phẩm hàm cho người sống sót truy tặng cho người hi sinh hay dùng những lời lẽ tán dương như “các bạn đã tấp nập đầu quân đã không ngần ngại rời bỏ quê hương”.
Tất cả chỉ là những lời nói bịp bợm lừa phỉnh khi mà thực tế chúng xích trói bắt nhốt và đương nhiên bạo động nổ ra. Đây chính là những lời lừa dối mị dân. Tác giả mỉa mai những luận điện chua chát ấy bằng những câu hỏi tu từ đầy sức thuyết phục “Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính như thế tại sao có cảnh tốp thì bị xích tay điều về tỉnh tốp thì trước khi bị đưa xuống tàu bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn có cả lính gác canh lưỡi lê tuốt trần đạn lên nòng sẵn. Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên , những vụ bạo động ở Sài Gòn ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa phải chăng là những cuộc biểu tình của sốt sắng đầu quân và không ngần ngại”. Bác đã lột trần bản chất tham lam và bạo tàn của chúng đối với người dân thuộc địa. Lập luận của Bác khiến cho toàn quyền Đông Dương cứng họng không thể trả lời.
Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh là vô cùng đau thương được nhà văn miêu tả bằng những lời lẽ đầy sắc cạnh “Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi thì những lời tuyên bố tình tứ của ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im lặng như cao phép lạ và cả người Nê-gô-rô lẫn người An-nam-mit mặc nhiên trở lại giống người bẩn thỉu” hay để ghi nhớ công lao của người An nam chẳng phải người ta đã lột hết quần áo của họ từ chiếc đồng hồ , bộ đồ mới toanh mà họ bỏ tiền túi mua hay là những vật kỉ niệm đủ thứ. trước khi đưa họ đến Mác–xây xuống tàu về nước đó sao?Chẳng phải người ta đã giao cho họ bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao?
Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xép lợn dưới hầm tàu ẩm ướt không giương nằm không ánh sáng thiếu không khí đó sao?Về đến xứ sở chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nông nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước “Các anh đã bảo vệ tổ quốc . Bây giờ chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!đó sao?”. Như vây với lập luận phản bác mâu thuẫn trào phúng câu hỏi tu từ điệp từ đã cho thấy những hành động vô nhân đạo tráo trở tàn nhẫn của bọn tay sai đối với nhân dân ta. Chính quyền thực dân đối xử với những người lính trở về như đối xử với súc vật với người có tội chứ không phải là đối xử với người có công đổ máu cho họ. Cách đối xử ấy là tráo trở đê hèn của một nước luôn vỗ ngực nói mình là mẫu quốc
Với tư liệu phong phú xác thực giàu hình ảnh giá trị biểu cảm giọng điệu đanh thép ngòi bút trào phúng sắc sảo châm biếm mỉa mai làm tác phẩm như một lời tố cáo đanh thép nhất đối với chính quyền Pháp thuộc là đòn tấn công quyết liệt đối với chủ nghĩa thực dân. Đoạn trích cũng cho người đọc thấy được bộ mặt tàn ác nhẫn tâm cuồng thú của bọn thực dân khi dùng những người dân thuộc địa vô tội làm vật hi sinh cho chúng đồng thời cũng nói lên thân phận thảm hại nô lệ của những người dân An Nam. Bên cạnh đó tác phẩm cũng cho ta thấy tấm lòng thương cảm của Bác đối với thân phận những người dân và cũng khẳng định tài hoa khéo léo trong việc hành văn của Bác.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 3
Thuế máu là chương mở đầu đầy máu và nước mắt trong Bản án chế độ thực dân Pháp. Dưới ngòi bút nhân đạo cao cả của Nguyễn Ái Quốc, số phận của người dân thuộc địa hiện lên thật bi thảm, gieo vào lòng người đọc bao nỗi niềm thương cảm đến xót xa.
Trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nước thuộc địa Á-Phi-Mỹ La Tinh chìm trong đêm trường tối tăm ngột ngạt của cảnh sống nô lệ lầm than. Chính sách cai trị của bọn thực dân vô cùng dã man và độc ác, với hàng trăm thứ thuế bất công vô lý:
Các hạng thuế các làng tăng mãi
Hết đinh điền rồi lại trâu bò
Thuế chó củi, thuế lợn lò
Thuế muối, thuế rượu, thuế đò, thuế xe…
(Á tế ca).
Nhưng phũ phàng và tàn nhẫn nhất là thuế máu, sự bóc lột xương máu và mạng sống của người dân thuộc địa của bọn đế quốc đã được Nguyễn Ái Quốc phản ánh chân thực và sinh động.
Chưa bao giờ mà mạng sống của người dân thuộc địa lại bị coi rẻ như vậy. Dưới ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc, từng bi kịch đầy đau thương cứ hiện dần lên. Qua giọng văn vừa mỉa mai, giễu cợt, vừa cay đắng xót xa, ta cảm nhận được một cái tình người mênh mông của nhà văn. Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ tấm lòng thương yêu quê hương đất nước thiết tha của người dân bản xứ. Đối với họ, đàn trâu, mảnh vườn là những gì thân thiết nhất. Thế mà họ phải đột ngột xa lìa vợ con, đi phơi thây trên các chiến trường châu Âu. Đọc đến đây ta thấy lòng mình nghẹn lại.
Nhưng nỗi đau thương ấy đã thấm thía gì. Ngòi bút phê phán của Nguyễn Ái Quốc tiếp tục miêu tả khá tỉ mỉ những cái chết đầy thảm thương của những người lính thuộc địa trên các chiến trường châu Âu: trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kỳ diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái. Một số khác đã bỏ xác tại các miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng, lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ – chả thế sao lại đem nướng họ ở những nơi xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát, trên bờ sông Mác -nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ để lấy máu mình tưới những dòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm tên những chiếc gậy của các ngài thống chế.
Không chỉ những người lính khốn khổ, ngay cả những người dân thuộc địa không trực tiếp ra trận cũng phải nhận cái chết đau đớn ở các công xưởng chế tạo vũ khí phục vụ chiến tranh. Biết bao cái chết thương tâm để rồi kết lại thành con số khủng khiếp: Bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp, và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn nhìn thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Tám vạn người dân bản xứ đã bỏ mạng vì những danh dự hão huyền mà họ không bao giờ được nhận, vì những quyền lợi mà họ không bao giờ được hưởng.
Số còn lại thì sao? Dù có sông sót, họ chỉ lê tấm thân tàn ma dại trở về kiếp sống trâu ngựa dưới cái chế độ không hề biết gì đến chính nghĩa và công lý: Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyến bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô đến người An-nam-mít mặc nhiên trở tại "giống người bẩn thỉu”.
Nguyễn Ái Quốc kể tiếp: Để ghi nhớ công lao của người tính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ đã bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỷ niệm đủ thứ… trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? về đến xứ sở, chẳng phải họ được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bàng một bài diễn văn yêu nước: Các anh đã bảo vệ tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chứng tôi không cần đến các anh nữa,cút đi! Đó sao?Thật quá bất công và tàn nhẫn! Nhưng nào đã hết! Chiến tranh đã kết thúc mà thảm cảnh thì vẫn tiếp diễn. Cả một dân tộc bị đầu độc bởi vì chính quyền cai trị thực dân đã cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho các thương binh người Pháp và vợ con tử sĩ người Pháp.
Ở những chương sau của Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục kể ra những thảm cảnh mà những người dân thuộc địa đang gánh chịu: một người da đen bị hành hình, hai cha con người bán hoa quả Việt Nam bị bọn thủy thủ Pháp dội nước sôi vào người rồi hô hố cười, những nỗi nhục của người đàn bà bản xứ…
Có thể nói: Bản án chế độ thực dân Pháp thấm đầy máu và nước mắt của người dân thuộc địa. Tiếng oán hờn thông thiết như thúc giục mọi người hãy thấm máu trên người, đứng dậy làm cách mạng đánh đuổi bọn thực dân, giành lấy quyền sống.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 4
Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của bọn chế độ thực dân đế quốc. Mở đầu là chương: Thuế máu đầy uất hận. Thuế máu là cái tên thật ý nghĩa! Thuế máu đã gợi lên được tội ác của chính quyền thực dân và bao hàm cả lòng căm phẫn, sự mỉa mai của tác giả đối với tội ác đó.
Bọn thực dân đế quốc xâm lược và cai trị thuộc địa đã gây ra nhiều tội ác đối với người dân bản xứ. Nhưng có lẽ tội ác bóc lột Thuế máu là tội đáng ghê tởm nhất. Song điều đáng chú ý trong Bản án chế độ thực dân Pháp là việc lợi dụng xương máu của người dân thuộc địa được bọn đế quốc ngụy trang bằng bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần được bộ mặt tàn bạo và sự lừa bịp trơ tráo, bỉ ổi của chúng.Ngay ở phần thứ nhất của chương, bộ mặt thực của bọn thực dân đã hiện nguyên hình.
Chiến tranh và người bản xứ. Chiến tranh có liên quan gì đến người bản xứ? Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) giữa các nước đế quốc diễn ra ở chiến trường châu Âu tưởng như chẳng có quan hệ gì với người dân ở các xứ thuộc địa châu Á và châu Phi. Thế nhưng nó lại có quan hệ rất mật thiết. Bởi người dân thuộc địa bị sử dụng làm vật hi sinh cho quyền lợi của bọn thực dân đế quốc trong cuộc chiến tranh thảm khốc ấy. Để vạch trần tội ác và sự lừa bịp của chính quyền thực dân trong việc bóc lột thuế máu. Nguyễn Ái Quốc đã so sánh thái độ của các quan cai trị ở hai thời điểm: trước chiến tranh và khi cuộc chiến tranh đã nổ ra.
Trước chiến tranh, người dân bản xứ được xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử, đánh đập như súc vật: Trước năm 1914 họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Khi chiến tranh vừa bùng nổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc, vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quí ấy thế mà khi cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yếu, những người "bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tôi cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.
Đưa ra hai bức tranh tương phản về hai thái độ của các quan cai trị thực dân ở hai thời điểm khác nhau, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần được thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biến người dân thuộc địa thành vật hi sinh. Và đây, sự bóc lột thuế máu của chúng thật tàn bạo: bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quế hương đất nước mình nữa.
Để có được con số 70 vạn người, chính quyền thực dân cai trị thuộc địa đã sử dụng các thủ đoạn và mánh khóe bắt lính. Thủ đoạn và mánh khóe ấy được Nguyễn Ái Quốc gọi bằng một cái tên đầy mỉa mai: chế độ lính tình nguyện! Để che giấu sự thật, bọn cầm quyền thực dân đã dùng những lời lẽ bịp bợm: Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quế hương biết bao trìu mến để người thì hiến dâng xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ.
Chính quyền thực dân rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa trong khi chính chúng đang tiến hành những thủ đoạn và mánh khóe bắt lính hết sức trơ tráo và bỉ ổi. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến miền ngược, khắp các hang cùng ngỗ hẻm ở các xứ thuộc địa, những cuộc lùng sục, vây bắt và cưỡng bức đi lính đã diễn ra: thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh và nghèo khổ. Không ít người đã tìm cách thoát thân. Vì thế, bọn thực dân đã không ngần ngại trói, xích, nhốt họ như người ta nhốt súc vật, kể cả việc sẵn sàng trấn áp: Tốp thì bị xích tay điều về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường học ở Sài Gòn có lính Pháp canh gác, có lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn. Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên…
Dã man hơn, đối với các thanh niên Xê-nê-gan không chịu đi lính chết thay cho bọn đế quốc, một tên thực dân Pháp bắt thân nhân họ ra hành hạ. Hắn bắt ông già, bà già, đàn bà có thai, con gái, đem lột trần truồng, hai tay bị trói ghì. Những nạn nhân bị bắt ấy phải chạy qua những thôn xã dưới làn roi vọt. Ghê tởm thay những cảnh dã man của nền văn minh Pháp! Ghê tởm hơn nữa là trong khi bắt lính, các quan cai trị thực dân còn lợi dụng để xoay xở kiếm tiền: sau đó chúng mới đòi đến con cái các nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra.
Sang phần III của chương: Kết quả của sự hi sinh một lần nữa Nguyễn Ái Quốc lại cho người đọc thấy được bộ mặt trơ tráo tàn nhẫn của chính quyền thực dân được bộc lộ một cách trắng trợn: Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô lẫn người An-nam-mít mặc nhiên trở lợi giống người bẩn thỉu.
Nguyễn Ái Quốc kể tiếp: Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỷ niệm đủ thứ… trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường năm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị thực dân biết ơn đón tiếp đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thê là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi đó sao?.
Như vậy chiến tranh kết thúc thì cũng là lúc bọn thực dân đế quốc ngang nhiên và công khai lộ rõ bộ mặt tráo trở, vô nhân đạo. Người dân thuộc địa lại trở lại với giống người hèn hạ sau khi bị bóc lột kiệt cùng thuế máu. Đó là diều dễ hiểu bởi vì làm gì có chính nghĩa và công lí ở bọn thực dân! Dã man nữa chính quyền thực dân còn: không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi bằng cách cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp và vợ con tử sĩ người Pháp.
Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong, và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân, giả nghĩa trơ trên, bản chất tàn bạo của chính quyền thực dân xung quanh việc bóc lột thuế máu được phơi bày toàn diện và triệt để.
Thuế máu là chương mồ đầu đầy mãnh liệt và khủng khiếp như hồi I vở kịch Hăm-Lét bỗng vua cha xuất hiện giữa đêm khuya, vô cùng giận dữ và kêu gọi báo thù.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 5
Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) là tác phẩm của Hồ Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921-1925, đăng tải lần đầu tiên tại Paris trên Báo Imprékor của Quốc tế Cộng sản.
Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục, với cách thành văn ngắn gọn, súc tích, cùng với những sự kiện đầy sức thuyết phục, tác phẩm tố cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khốc liệt bắt “dân bản xứ” phải đóng “thuế máu” cho chính quốc… để “phơi thây trên chính trường Châu Âu”, đày đọa phụ nữ, trẻ em “thuộc địa”; các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một bầy thú dữ, v.v… Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn ngay từ khi ra đời, thức tỉnh lương tri của những con người yêu tự do, bình đẳng, bác ái, hướng các dân tộc bị áp bức đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác-Lm ênin, thắp lên ngọn lửa đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.
Năm 1946, ở Việt Nam, tác phẩm này đã được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Hà Nội. Năm 1960, Nhà xuất bản Sự Thật lần đầu tiên đã xuất bản bằng tiếng Việt. Đoạn trích Thuế máu Thuộc chương I Bản án chế độ thực dân Pháp. Ở chương này tác giả tập trung vạch trần bộ mặt kẻ thù, nói lên nỗi nhục khổ của những người dân bị áp bức, kêu gọi nhân dân thuộc địa đoàn kết đấu tranh.
Đoạn trích gây ấn tượng với người đọc ngay từ nhan đề của nó: Thuế máu. Trong thực tế không có thuế nào gọi là "thuế máu", chỉ có thuế thân, thuế gạo, thuế muối,… Thuế máu là cách đặt tên của tác giả nhằm phản ánh một thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn của chế độ thực dân, ở các nước thuộc địa: biến người dân nơi đây thành vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Qua nhan đề này, nhà văn muốn phản ánh số phận bi thảm của người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ.
Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chính quyền thực dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày bản chất "ăn thịt người" của bè lũ thực dân.
Phần một: Chiến tranh và người bản xứ. Ở phần này, tác giả nêu bật sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng nổ. Trước chiến tranh, người dân thuộc địa bị bọn thực dân cai trị coi là giống người hạ đẳng, ngang hàng với súc vật: … họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, bọn thực dân cần lính, cần người tham gia chiến tranh thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do".
Tác giả đưa ra hai thái độ trái ngược hoàn toàn ấy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân trong việc biến dân thuộc địa thành vật hi sinh. Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả kích sâu cay. Số phận của người dân bản xứ trong các cuộc chiến tranh được Nguyễn Ái Quốc khắc họa thật thê thảm: Họ phải xa lìa vợ con, xuống tận đáy biển bảo vệ Tổ quốc cho các loài thủy quái, bỏ xác tại miền hoang vu. Ra chiến trường là thế, còn ở hậu phương, người dân thuộc địa cũng không kém phần thê thảm. Hầu hết họ phải làm kiệt sức trong xưởng thuốc, hít phải những luồng khí độc, "khạc ra từng miếng phổi".
Và tác giả đã tổng kết lại về số phận của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa bằng một con số cụ thể: "Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa". Tác giả đã nêu ra một con số khủng khiếp về số người bản xứ đã bỏ mình trôn đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất: Tổng cộng cố bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.
Phần hai: Chế độ lính tình nguyện.
Ở phần này, tác giả vạch trần các mánh khóe và thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân. Bọn chúng tiến hành những cuộc lùng ráp vây bắt, cưỡng bức người ta đi lính; lợi dụng chuyện bắt lính mà doạ nạt, xoay xở kiến tiền đối với những nhà giàu; sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối. Trong khi thực hiện những hành vi bỉ ổi trên, chính quyền thực dân vẫn không quên rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn, họ đã tuyên bố rằng: "Các bạn ấy đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ". Có thật là người dân thuộc địa tình nguyện hiến dâng xương máu cho "nước mẹ Đại Pháp" như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền hay không? Tác giả kể rằng:
Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Tác phẩm đã kể ra các sự thực: người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ còn tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính. Qua đây chúng ta thấy thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân Pháp thật bỉ ổi. Thực chất là dựng vũ lực bắt lính chứ không hề có “tình nguyện” nào cả. Bằng giọng điệu giễu cợt cùng những câu hỏi đanh thép, những dẫn chứng hùng hồn, tác giả đó vạch trần bản chất mánh khóe, vụ lợi, mị dân của thực dân Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã nhắc lại câu chuyện thực tế bằng giọng điệu giễu cợt các lời tuyên bố trịnh trọng của bọn thực dân cầm quyền rồi phản bác lại bằng những thực tế hùng hồn.Tiếng cười chua chát, tiếng cười nước mắt. Đằng sau là nỗi đau của tác giả. Không một lúc nào Người quên được nỗi đau của dân tộc mình, nhân dân mình dưới ách cai trị của bọn thực dân. Vậy thì, kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa cho các cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy như thế nào? Bọn thực dân đã đối xử như thế nào đối với những người đã ra chiến trường thay họ? Đó chính là nội dung của phần ba của văn bản: Kết quả của sự hi sinh.
Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột xương máu họ đã được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố cáo rất lớn: Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô" lẫn người "An nam-mít" mặc nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu". Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính nghĩa và công lí. Cách đối xử của chính quyền thực dân với họ sau chiến tranh – sau khi đã bóc lột hết "thuế máu" thật tàn nhẫn, độc ác. Ở đây, nhà văn đã vạch trần được bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của chính quyền thực dân cùng với bộ mặt trắng trợn khi tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mau sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bỉ như đối với súc vật. Người dân thuộc địa lại trở về vị trí hèn hạ ban đầu sau khi bị bóc lột trắng trợn thuế máu.
Nhà văn đã sử dụng hàng loạt câu nghi vấn để lột trần được bộ mặt vô nhân đạo , tráo trở, tàn nhẫn và bản chất lừa dối, nham hiểm, độc ác, phi nhân tính của thực dân Pháp. Ba phần của chương Thuế máu được sắp xếp theo trình tự thời gian trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bản chất độc ác của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột xương máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ các xứ thuộc địa cũng được phản ánh một cách chân thực và sinh động.
Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thể hiện chủ yếu qua hệ thống hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, những từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi cảm và chất chứa sức mạnh tố cáo tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân. Ngôn ngữ tác phẩm mang màu sắc trào phúng rất rõ nét. Những từ mỉa mai như; "con yêu", "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do", "lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế", "lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế", "vật liệu biết nói…" vừa phơi bày bản chất dã man của chủ nghĩa thực dân, vừa tô đậm số phận bi thảm của người dân thuộc địa.
Tác giả sử dụng rất thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông bằng cách nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để bóc trần bản chất lừa bịp vô liêm sỉ của chúng. Tác giả dùng liên tiếp các câu hỏi tu từ để phơi bày sự thật trái ngược với lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế nên không thể chối cãi. Để tăng tính thuyết phục của lí lẽ, khi cần, tác giả còn dẫn ra ý kiến của người khác hay của chính đối tượng bị đả kích. Tác giả sử dụng có hiệu quả biện pháp nghệ thuật kể để nêu ra những câu chuyện, những bằng chứng rõ ràng. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế sinh động nên không thể chối cãi. Để tăng tính xác thực, khi cần còn dẫn ra ý kiến của người khác hay lời lẽ của chính đối tượng đả kích.
Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hòa làm cho văn bản nghị luận này trở nên sinh động, hấp dẫn. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu chung của tác phẩm, người đọc nhận ra thái độ yêu ghét rõ ràng của tác giả: căm phẫn chính quyền thực dân tàn ác và xót xa thương cảm cho thân phận người dân nô lệ của các nước thuộc địa bị bóc lột đến cả xương máu, tính mạng.
Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ thái độ đê mạt, hèn hạ của đám quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm trước chiến tranh và sau chiến tranh xảy ra, đồng thời đồng cảm sâu sắc với số phận bi thảm của những người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 6
Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc là tác phẩm tố cáo chân thực nhất tội ác của thực dân Pháp, chúng dùng mọi thủ đoạn khốc liệt nhất để đày đọa, bóc lột. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục. Trong đó phải kể đến chương 1 “Thuế máu”,chương này tác giả tập trung vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa và thủ đoạn tàn bạo của thực dân pháp trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hy sinh trên chiến trường hay dùng xương máu của người để làm giàu cho mình .
Bằng những lý luận chặt chẽ, tư liệu phong phú xác thực và hình ảnh giàu giá trị biểu cảm Nguyễn Ái Quốc đã cho ta thấy được bộ mặt thật của thực dân Pháp. Giọng văn của bác vừa kết án đanh thép vừa mỉa mai chua xót, vừa thông cảm xót thương. Trước hết cái tên “thuế máu” đã mang nhiều ý nghĩa. Nó gợi lên số phận đau thương bi thảm của người dân thuộc địa đồng thời thể hiện thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Những người dân thuộc địa họ phải chịu nộp những thứ thuế vô lý bất công song thứ thuế tàn nhẫn dã man nhất đó chính là thứ thuế được thu bằng xương máu của họ . Thứ thuế này thật quá đắt đỏ nó đã được đánh đổi bằng cả tính mạng của người dân thuộc địa, qua đây ta thấy được tâm địa độc ác tham lam của chính quyền thực dân.
Chương gồm 3 phần rất rõ ràng được với những cái tên nêu bật được nội dung trong đó :chiến tranh người bản xứ, chế độ lính tình nguyện và kết quả của sự hy sinh. Trình tự cũng như cái tên trong các phần của chương thuế máu cũng đã hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chế độ thực dân. Những cái tên cứ nối tiếp nhau như vậy đã từng bước phơi bày bản chất “ăn thịt người” của bè lũ thực dân. Đầu tiên là phần một chiến tranh người bản xứ. Ngay từ khi mở đầu ta đã thấy được sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa qua 2 thời điểm là trước khi chiến tranh và chiến tranh vừa mới nổ ra. Lúc đầu họ chỉ được coi như giống người hạ đẳng ngang hàng với súc vật, không có tiếng nói “ họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “Anamit” bẩn thỉu, cùng lắm chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta”.
Người dân thuộc địa bị coi thường bị chúng chà đạp dày vò coi không ra gì. Ấy vậy mà khi chiến tranh vừa nổ ra chúng bắt đầu lật mặt thay đổi thái độ nhanh chóng bởi chúng cần người tham gia chiến tranh, nhưng thật ra là cần người làm lá chắn làm mồi nhử địch. Người dân thuộc địa từ những tên bẩn thỉu đen nhẻmđó bỗng chốc trở thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Họ bỗng chốc được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sỹ bảo vệ công lý tự do”. Chao ôi những từ như “ con yêu”, “bạn hiền”, hay cái danh hiệu nghe thật giả tạo và ghê tởm đồng thời thể hiện được sự tráo trở của bọn thực dân. Tác giả đưa ra sự đối nghịch như vậy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chúng trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hy sinh. Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả kích sâu cay.
Số phận bi thảm của người dân thuộc địa được diễn tả rất cụ thể qua những câu văn “họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hay đàn cừu của họ, vượt đại dương đi phơi thây trên chiến trường châu âu. Không chỉ chết trên chiến trường mà người dân thuộc địa bị lấy đi mạng sống ở chỗ khác như “ xuống đáy biển để bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái, bỏ xác tại miền hoang sơ thơ mộng vùng Ban-căng,….” Rất nhiều rất nhiều cái chết khác nhau. Vậy gia đình họ sẽ nhận được cái gì sau cái chết này. Có lẽ là không gì cả. Những người không phải đi ra trận, họ cũng bị hành hạ thừa sống thiếu chết (chế tạo vũ phí phục vụ chiến tranh): làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô sơ”, nhưng lại phải nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp. Họ phải hứng chịu bệnh tật và những cái chết đau đớn, vì những kẻ khốn khổ ấy khạc ra từng miếng phổi, chả khác gì hít phải hơi ngạt.
Khi tác giả tổng kết lại số người chết trên đất Pháp, con số lên tới tám vạn người. Những con người này họ không còn nhìn thấy ánh nắng trên quê hương mình nữa, họ chết một cách vô nghĩa chết vì sự đểu giả, tham lam của chính quyền thực dân. Tiếp theo phần 2 chế độ lính tình nguyện, phần này tác giả vạch trần các mánh khóe thủ đoạn của bọn thực dân. Có đúng không khi người dân thuộc địa nguyện hiến dâng xương máu của mình cho “nước mẹ Đại Pháp” như lời chính quyền nói không? Dĩ nhiên là không rồi, chúng ta phải chịu đủ thứ thuế vô lý như sưu sai tạp dịch rồi bị bắt mua rượu, mua thuốc phiện. Thật quá bất công, ấy vậy mà phải chịu thêm cái vạ mộ lính. Những biến cố trong mấy năm gần đây chính là cái cớ để bọn thực dân tiến hành cuộc lùng ráp nhân lực trên tòa cõi Đông Dương. Khi bị bắt về những người dân thuộc địa được đặt với nhiều cái tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,…..
Bọn chúng thực chất coi họ là những thứ vật liệu biết nói, được xếp ngang hàng với đồ vật bị coi khinh trong khi phải bán xương máu mồ hôi mình cho bọn thực dân. Thông qua cách gọi của chúng ta đã biết được bộ mặt lừa bịp dối trá dã man của thực dân pháp. Chúng biến một con người thành một công cụ để phục vụ cho chúng, để mặc sức hành hạ bóc lột. Giá trị con người bị hạ thấp vậy mà chúng tự vẽ nên cho mình bộ mặt thánh thiện giả tạo rằng những việc làm này là phục vụ cho nước pháp kính và họ sẵn sàng tự nguyện hiến dâng. Vâng hẳn là hiến dâng, hiến dâng kiểu gì mà ta thấy được cảnh chúng tóm những người khỏe mạnh nghèo khổ(chỉ biết chịu đựng thôi không kêu cứu vào đâu được) trước sau đó thì đến những người giàu (được chọn 2 con đường: xì tiền và đi lính tình nguyện).
Đây là hình ảnh mà chúng gọi là tình nguyện hiến dâng, cảnh bắt trói nhốt người ta như súc vật, và đàn áp dã man nếu chúng đối. Ấy thế mà chúng dám trịnh trọng tuyên bố rằng “ các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến của mình để người thì đi hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến cánh tay lao động như lính thợ”. Bằng những câu hỏi tu từ tác giả đã mỉa mai chua chát luận điệu dối trá ấy: “ nếu quả thật người dân An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay rượu về tỉnh, tốp thì trước khi xuống tàu bị nhốt trong trường học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn ? Những cuộc biểu tình ở Cao Miên, những cuộc bạo động ở Sài gòn, ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa, phải chăng đây là biểu hiện của lòng “tấp nập đầu quân” và “không ngần ngại”. Những hình ảnh trên đã quá đối lập với câu nói của bọn thực dân, qua đây nó đã tố cáo sự lừa bịp đểu giả của chúng.
Cuối cùng phần 3 kết quả của sự hy sinh. Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các nhà cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê – gơ rô và người An nam mít mặc nhiên trở lại giống người bẩn thỉu. Thế mà trước lúc đó họ còn được đặt danh hiệu là “chiến sỹ tối cao bảo vệ công lý”, vậy mà giờ đây sau khi đã bị bóc lột lợi dụng xong, những người này bị phủi tay vất đi như một thứ công cụ hết hạn sử dụng. Không những thế để ghi nhớ công lao của người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết của cải của họ từ chiếc đồng hồ, bô quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua đến cái kỉ vật đủ thứ, … trước khi lên tàu về nước hay sao, ……..
Rất nhiều những hành động bỉ ổi và lật mặt của chúng. Khi về nước họ lại trở lại những thân phận cũ của mình là những tên bẩn thỉu trong khi trước đó họ được coi như những người “bạn hiền”, “con yêu”. Bộ mặt tráo trở của chính quyền đươc bộc lộ qua các hành động như tước đoạt hết các đồ vật mà người dân thuộc địa mua được, đánh dập ho vô cớ, đối xử với họ như súc vật. Ba phần của chương máu đươc sắp xếp theo trình tự thời gian một cách hợp lý (trước, trong và sau chiến tranh thế giới lần 1 ). Thông qua cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bộ mặt độc ác của chính quyền thực dân được bộc lộ một cách rõ ràng và triệt để.
Măt khác số phận đáng thương của người dân các xứ thuộc địa được phản ánh một cách sinh động và chân thực nhất. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thông qua những hình ảnh chân thực tiêu biểu, những từ ngữ giàu chất gợi tả gợi cảm và chất chứa sức tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông khi nhắc lợi những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng hoa mỹ mà chính quyền thực dân khoác lên người dân thuộc địa để vạch trần bản chất dối trá vô nhân đạo của chúng. Thêm vào đó tác giả dùng liên tiếp các câu hỏi tu từ để phơi bày bộ mặt giả tạo của chúng, Rồi các hình ảnh con số bằng chứng chân thực khiến chúng không thể chối cãi được. Thông qua hệ thống hình ảnh và giọng điệu của Nguyễn Ái Quốc ta có thể thấy được thái độ căm phẫn trước tội ác của chính quyền thực dân và sự xót thương trước nỗi đau của người dân thuộc địa.
Đoạn trích thuế máu đã cho ta thấy được bản chất thật sự của chính quyền thực dân, nỗi khổ cực của nhân dân. Đồng thời thấy được tình yêu thương vô bờ bến của bác đối với nhân dân ta nói riêng và người dân thuộc địa nói chung. Bác chính là cây bút văn chính luận xuất sắc của nước ta. Bằng những lý lẽ sắc đáng bằng chứng chân thực bác đã khắc họa nên nỗi uất ức mà dân thuộc địa phải chịu đựng.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 7
Với tư cách là một thiên phóng sự điều tra, Bản án chế độ thực dân Pháp là văn chương báo chí. Sức thuyết phục của nó là những con số, những nhân chứng, những thống kê, nghĩa là những sự thật không gì chối cãi được. Người viết nó ở vào vị thế khách quan không hề khoa trương cường điệu. Song, một mặt khác, tác phẩm rất gần với văn chương hình tượng, nghĩa là những sáng tạo nghệ thuật ở một loạt hình ảnh gợi cảm, ở giọng điệu trào phúng, giễu cợt, mỉa mai. Sự kết hợp về mặt thể loại này đã đưa đến một hiệu quả không ngờ : tố cáo chế độ thực dân, phơi bày cuộc sống khốn cùng của người dân các xứ thuộc địa. Lòng căm giận (đối với chế độ thực dân) và yêu thương (đối với nhân dân các nước thuộc địa) là những mạch ngầm văn bản thể hiện một khát vọng mãnh liệt, sâu sắc của tinh thần chiến đấu, của ý chí chiến đấu giành độc lập tự do của cây bút tài hoa cũng là của một người chiến sĩ cách mạng.
Thuế máu là một cách đặt tên chương đầy ấn tượng, có sức biểu cảm, khơi gợi rất cao. Đây là một thứ thuế cực kì vô lí, một sự bóc lột tàn bạo, trắng trợn đến tận cùng sinh mạng của những người dân thuộc địa. Chiến tranh phi nghĩa đối với bọn đế quốc là một cách làm giàu nhanh nhất và bóc lột xương máu của những người dân thuộc địa mà chúng tự phong cái nghĩa vụ khai hoá, bảo hộ là con đường rẻ nhất. Đó là những cuộc chiến tranh mang lại lợi nhuận vổ cùng lớn. Bóc lột sức lực mồ hôi đã là một tội ác. Bóc lột xương máu lại là một tội ác lớn hơn. Bản chất độc ác ấy, lần đầu trên báo chí được phanh phui, bộ mặt của bọn thực dân hiên nguyên hình là những loài dã thú trong thời đại văn minh. Tính chất phản nhân loại ấy được lôi ra ánh sáng, trước vành móng ngựa của lương tri. Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương đầu của tác phẩm vừa theo lô gích thời gian, trọn vẹn một quy trình công nghệ đưa thân xác người dân thuộc địa vào guồng máy chiến tranh (Chiến tranh và "người bản xứ" ; Chế độ lính tình nguyện ; Kết quả của sự hi sinh) vừa theo nguyên tắc của nghệ thuật. Hình thức đầu cuối tương ứng trong kết cấu (như hình ảnh chiếc lò gạch trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao) tạo nên sự va đập dữ dội trong tâm trí của người đọc, người nghe. Xương máu mà người dân thuộc địa phải trả cho các cuộc chiến tranh đế quốc thật la vô nghĩa. Sự lừa bịp của bọn thực dân không còn một thứ bình phong hay mĩ từ nào che giấu được.
Chiến tranh và "người bản xứ". Người bản xứ, truớc mắt bọn thực dân, vốn chỉ là "những tên da đen bẩn thỉu", "những tên An-nam-mít bẩn thỉu", tưởng không liên quan gì đến các cuộc chiến tranh, thậm chí không biết gì về các cuộc chiến tranh. Cái họ biết chỉ là "kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta". Bởi vậy, khi đột ngột nhận được vinh dự đặc biệt, danh hiệu tối cao thì chính họ không sao hiểu nổi. Thì ra chiến tranh bùng nổ, họ là những vật hi sinh, họ phải đóng một thứ thuế không nằm trong văn bản luật định thông thường : thuế máu. Bọn đế quốc thời nay không hẳn giống bọn đế quốc thời xưa ở chỗ chúng khôn ngoan hơn. Không "uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ" (Hịch tướng sĩ), chúng lừa bịp những người dân đen bằng những lời đường mật. Bị cưỡng bức phải nghe theo (không nghe đã có roi vọt, có nhà tù), những người dân đen ấy lập tức phải rơi vào những cảnh ngộ thảm thương : xa lìa gia đình quê hương, vật hi sinh cho lợi ích và danh dự của kẻ cầm quyền. Kẻ ở lại hậu tuyến chẳng khác nào người ra trận "đằng nào cũng thế thôi" có mà chạy đằng trời trước cuộc chiến tranh "để bảo vệ cho cái công lí và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào", sắc điệu trào phúng, mỉa mai trong ngôn từ, trong giọng điệu, đặc biệt là trong những quan hệ không ăn nhập gì với nhau, thậm chí đối lập với nhau dẫn đến hậu quả gây cười, một cách gây cười đối với trí tuệ, với nhận thức người nghe thật là sâu sắc. Ây là chưa kể một văn phong theo kiểu thời thượng châu Âu, nhất là văn chương Pháp đã tạo nên một sự hoà nhập giữa văn học Việt Nam vào văn chương thế giới mà đây là tác phẩm đầu tiên.
Chế độ lính tình nguyện. Bản thân cụm từ "chế độ lính tình nguyện" đã là một cách gọi giễu cợt mỉa mai nhằm che đậy một sự thật bên trong hoàn toàn ngược lại. Cũng như sau khi công việc bắt lính đã hoàn tất, phủ toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố một cách trịnh trọng, vui vẻ : "Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của minh như lính thợ". Sự thật trong việc bắt lính đã bị nhà cầm quyền xuyên tạc đi, tô hồng lên một cách đáng hổ thẹn. Đó là một gian dối không có lương tâm nhằm lừa bịp dư luận có lợi cho những kẻ chủ trương. Tuy vậy (hay chính là vì vậy) vì cảm thấy luận điệu trên đây là một sự xúc phạm ghê gớm không chỉ đến tính mạng mà còn đến danh dự con người - ở đây là người dân các nước thuộc địa, tác giả bài viết đã ngay lập tức vạch trần cái dụng ý tối tâm đằng sau những mĩ từ kệch cỡm. Lời lẽ tuy nhẹ nhàng nhưng sự thật được đưa ra như một cái tát vả vào miệng kẻ ăn không nói có không biết ngượng mồm : "Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thi trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn ?". Bao nhiêu câu hỏi liên tiếp đặt ra dưới hình thức nghi vấn, nhưng có ý nghĩa phủ định, ví như tác giả nói về sự phản ứng quyết liệt chế độ bắt lính bằng các cuộc biểu tình, những vụ bạo động "phải chàng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân tấp nập và không ngần ngại ?".
Tuyên truyền chủ trương bắt lính và sự thật về hành động bắt lính hoàn toàn trái ngược với nhau. Đối với quan đầu tỉnh (mà tác giả cố ý dùng từ "chúa tỉnh") chỉ cần phát ra một cái lệnh nhẹ nhàng về số lượng và thời hạn. Cái lệnh ấy không cần hướng dẫn tỉ mỉ, chẳng hạn phương pháp tiến hành như thế nào, đối tượng bắt lính là ai ? Tác giả bài văn có một lời bình cứ như là một chú thích một dấu mở ngoặc đơn về bộ mặt có vẻ như dễ dãi, nhân từ của những viên quan đầu tỉnh : "Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở". Thế là như một phản xạ dây chuyền, đèn xanh tín hiệu bật lên, các quan dưới quyền tha hồ vào cuộc, một sự tiếp tay đầy hứng thú, một kho kinh nghiệm được, giở ra, vì về khoản này "các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền". Chỉ thương xót cho những người bị bắt lính. Kẻ thì chịu chết "không còn kêu cứu vào đâu được", người thì bị giam giữ để lựa chọn một trong hai cách "đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra".
Kết quả của sự hi sinh. Dấu hiệu của cuộc chiến tranh kết thúc không phải bằng sự im lặng của tiếng súng đại bác sau khi "đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi", mà bằng sự im lặng của "các quan cai trị nhà ta". Họ im lặng cũng phải, vì thân xác, sinh mạng của những người sống sót trở về như những món hàng lỗi mốt. Trước con mắt của nhà cầm quyền, họ đâu còn là những "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do", họ trở về cái thân phận của chính họ lúc ban đầu sau khi chịu đóng thuế máu cho các quan cai trị, họ mặc nhiên trở lại là "giống người bẩn thỉu".
Công lao của những kẻ đáng thương ấy không phải là không được nhớ đến. Chỉ có cách mà họ (nhà cầm quyền) nhớ đến thì chính nạn nhân của họ không ngờ. Ấy là sự tước đoạt trắng trợn tất cả những gì mà người dân bản xứ mua được sau khi đã đóng đủ "thuế máu" trong cuộc chiến tranh. Cũng chính những con người ấy bị đối xử như súc vật trước khi họ được chào đón (lúc trở về với mảnh đất quê hương) bằng một bài diễn văn sặc mùi "yêu nước" đại loại như : "Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi !". Đó là những nạn nhân nsười thuộc địa, còn với chính người Pháp (những tử sĩ, thương binh của họ) thì sao ? Họ (hay thân nhân họ) được cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện. Lời cảm ơn của người nhận quà, theo tác giả không còn một cách nào khác hơn là "nhổ vào mặt kẻ tặng quà", y như cái nhổ vào mặt tên toàn quyền Va-ren của Phan Bội Châu vậy (Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu - Nguyễn Ái Quốc).
Toàn bộ bài văn, xét về mặt nghệ thuật thì cái nổi trội nhất là bút pháp trào phúng: ngôn ngữ trào phúng, ngữ điệu trào phúng, kết cấu, lập luận nhằm mục đích trào phúng. Tác giả của nó đã sử dụng cách đánh chính diện, đánh vỗ mặt theo lối bóc trần tâm địa của kẻ lừa bịp mị dân, dồn chúng vào đến chân tường không nơi ẩn nấp. Còn cách đánh lại rất văn chương, đã đạt đến chiều sâu của sự thâm thuý.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 8
Trên con đường đi tìm đường cứu nước cho dân tộc mình, Nguyễn Ái Quốc - Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, vị cha già dân tộc; Người luôn một lòng đấu tranh chống lại bọn Thực dân bịp bợm, xấu xa, ác. Cống hiến về mọi mặt, bằng tất cả những sức lực Người đã dùng văn chương như vũ khí lợi hại để phục vụ múc đích cao đẹp của mình. Từ đó đã để lại rất nhiều tác phẩm để đời trong đó tiêu biểu phải nhắc đến “Thuế máu”.
Ngay từ nhan đề “thuế máu” đã gợi cho ta một thảm cảnh đẫm máu tàn sát. Đó chính là máu của dân ta phải đổ trước những roi da, dây quất của bọn thực dân Pháp bỉ ổi khi chúng xâm lăng đất nước ta. Đồng thời phần nào thể hiện thái độ phẫn nộ, căm thù khi chứng kiến cảnh dân tộc bị áp bức đến cùng cực.
Đoạn trích với bố cục ba phần đã bóc trần các chính sách lừa bịp, lừa phỉnh khi bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương khô tủy mục của chế độ thực dân cai trị. Đó chính là bản chất “ăn thịt người” của lũ thực dân bỉ ổi.Phần một với nội dung cáo trạng là: chiến tranh và người bản xứ. ở đây tác giả nêu lên sự đối lập về thái độ của các quan cai trị trước và sau khi tham gia chiến tranh. Trước chiến tranh, về với cuộc sống đời thường người dân thuộc địa chỉ là lũ người hạ đẳng, ngu si, dốt nát với cái mác tên “an-nam-mít” bẩn thỉu đen đuốc, “giỏi lắm chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị”.
Thế nhưng khi chiến tranh xảy ra, họ lại được phong với danh hiệu tối cao “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Các quan lại, quan cai trị quay mặt ra dụ dỗ, ca tụng, nâng niu như một viên ngọc quý giá, nhưng thực chất là bồi bổ cho tấm bia đỡ đạn cho chúng ở ngoài chiến trường cam go kia. Tác giả đưa ra hai mặt đối lập từ đó mà vạch trần bộ mặt gian trá, bỉ ối đến ghê người của lũ người sâu bọ kia bằng với giọng điệu không quá gào thét mà chỉ mỉa mai nhẹ nhàng nhưng cũng đủ để thấm đượm cái bản chất ăn thịt người chúng.
Tác giả đưa ra một con số cụ thể về số người dân thuộc địa khi tử vong ở các cuộc chiến tranh thuộc địa phi nghĩa: “Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp, trong số ấy tám mươi vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa”. Phần hai văn bản với nội dung: Chế độ lính tình nguyện. ở phần này Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần một cách trắng trợn bộ mặt bỉ ổi , thủ đoạn của bọn thực dân khi thực hiện chế độ bắt lính. Chúng tiến hành các cuộc vây bắt, đàn áp dã man, bắt người dân thuộc địa đi linh. Nếu không đi chúng cũng có đủ thủ đoạn tàn bạo mà bắt ép dã man: trói, bắt, đánh đập…còn đối với các gia đình khá giả chúng cũng không để yên mà cứ ám khỏe mà vòi vĩnh đòi “nôn” ra tiền cho chúng mới tha.
Nhưng có một thực trạng nực cười là trong khi chúng thi hành các chính sách dã man kia thì đồng thời cũng không quên rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của nhân dân. Lời tuyên bố của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng làm lộ ra bản chất đầy bịp bợm nực cười của chúng “các bạn ấy đã tấp nập đầu quân, không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thơ”.
Qua đó ta thấy được mặt bản chất bên trong phía sau hai chữ “tình nguyện” cao đẹp mà bọn bỉ ổi kia đã gian trá mà ca tụng. mấy ai rõ là phía sau chữ tình nguyên ấy là loạt những hành động dã man, thủ đoạn bắt lính bỉ ổi của bọn thực dân Pháp. Vẫn giọng điệu mỉa mai châm biến đến sâu cay cùng lối tài tình thong minh khi đưa chính lời nói của ngài toàn quyền Đông Dương, chỉ làm tang sự lố bịch trò hề mà chúng đang diễn mà thôi. Sau đó ta vẫn thấy xúc động, nghẹn ngào mà đầy xót xa của Người cũng như những độc giả về hình ảnh một đất nước nô lệ lại chính là đồng bào minh đang bị dày xéo đến lầm than, đói khổ.
“Thuế máu” như bản cáo trạng, buộc tội, là minh chứng rõ rang về bản chất của bọn thực dân Pháp bỉ ổi, đê tiện. cũng là một bức tranh về cuộc sống người dân An Nam đương thời, là một lòng yêu nước nồng nàn ẩn sau trong từng con chữ.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 9
Sử dụng văn chương như một công cụ đắc lực trong chiến đấu, trước đây ta đã từng biết đến những án văn hùng hồn trong Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi. Tiếp bước thế hệ đi trước, trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng văn chương chính luận làm công cụ chiến đấu đắc lực, vạch trần tội ác của giác. Đoạn trích Thuế máu trong Bản án chế độ Thực dân Pháp đã cho thấy ngòi bút chính luận bậc thầy của người. Ngòi chút chính luận sắc sảo, đanh thép của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện ngay trong lối tư duy logic, mạch lạc ở cách đặt tiêu đề cho mỗi chương. Thuế máu cách gọi vừa cho thấy số phận thảm thương, bất hạnh của những người dân nước thuộc địa. Vừa cho thấy sư độc ác, dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân.
Qua đó cũng bộc lộ thái độ của người viết: thương cảm cho số phận người dân và căm phẫn tột cùng với bè lũ thống trị. Bên cạnh đó cách đặt tên các phần cũng rất đáng lưu ý: Chiến tranh và người bản xứ, Chế độ lính tình nguyện và Kết quả sự hi sinh. Cách đặt nhan đề cho mỗi phần rất chính xác, theo trình tự thời gian, trước, trong và sau chiến tranh. Cách đặt tiêu đề cho các phần như vậy góp phần lột trần bộ mặt trơ trẽn, giả nhân giả nghĩa của chính quyền thực dân, đồng thời cho thấy sự bạo tàn đến tận cùng của chúng. Mặt khác ta cũng thấy được số phận bi thương của người dân nước thuộc địa.
Đi sâu vào tác phẩm ta thấy rằng chưa bao giờ số phận của người dân nước thuộc địa lại bị coi thường, rẻ rúng đến như vậy. Dưới con mắt của những kẻ cầm quyền họ chẳng khác nào trâu ngựa, bởi vậy khi chiến tranh vừa xảy ra họ lập tức bị gọi đi ngay, họ phải chia xa vợ con và bỏ mạng trên các chiến trường châu Âu. Đến đây ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc đi sâu vào từng sinh mạng bé bỏng phải bỏ mạng nơi đất khách quê người: “được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái” “một số khác đã bỏ xác tại các miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng” “Một số khác đưa thân cho người ta tàn sát….”
Không chỉ những người ra chiến trường mới phải chịu số phận bất hạnh, thảm thương, mà ngay cả những người dân thuộc địa, không phải ra chiến trận cũng phải chịu cái chết đau đớn tại các xưởng chế tạo vũ khí chiến tranh. Số người chết trên các chiến trường quả thực quá khủng khiếp, đến tám mươi vạn người dân bản xứ. Nhưng họ ra đi chiến đấu vì điều gì, vì thứ danh hiệu hão huyền, vì quyền lợi mà họ không bao giờ được hưởng. Họ – những người dân bản xứ đã đã bỏ mạng trên đất Pháp, và không bao giờ còn được nhìn thấy quê hương của mình nữa. Những người còn sống sót cũng có số phận chẳng hề khá khẩm hơn, họ bị thương, lết tấm thân tàn trở về, sống cuộc đời trâu ngựa cho đến cuối đời.
Chiến tranh tuy đã kết thúc, nhưng thực dân Pháp vẫn tìm mọi cách để đầu độc nòi giống. Chúng sử dụng những chiêu bài hết sức thâm hiểm như cấp môn bài bán lẻ thuốc biện cho các thương binh Pháp và vợ con sĩ tử Pháp. Thủ đoạn thâm độc ấy đã đầu độc cả một dân tộc. Đến đây ngòi bút của Bác càng trở nên sắc sảo hơn, sau khi đã nêu lên số phận thảm thương của người dân bản xứ. Bác đã dùng những lời lẽ vừa đanh thép, vừa mỉa mai châm biếm để vạch trần bộ mặt gian xảo của chính quyền thực dân: “Để ghi nhớ công lao của người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ … trước khi họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao?”….
Bản án chế độ thực dân Pháp nói chung và Thuế máu nói riêng là áng văn chính luận xuất sắc, với ngôn từ, giọng điệu châm biếm bậc thầy, nghệ thuật lập luận sắc sảo. Đằng sau đó ta còn thấy được máu và nước mắt của người dân thấm đẫm trên từng trang sách. Tác phẩm là lời tố cáo thống thiết và đanh thép chính quyền thực dân tàn bạo chà đạp lên quyền sống, quyền tự do của con người.
-
Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 10
Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp trong thời gian Người ở Pháp và được xuất bản lần đầu tiên tại Pari vào năm 1925. Tác phẩm đã tố cáo và kết án những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp, đồng thời phản ánh cuộc sống tủi nhục, đau thương của những người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới.
Đoạn trích Thuế máu được rút trong chương I của “Bản án chế độ thực dân Pháp. Các tiêu đề trong phần này lần lượt là Chiến tranh và người bản xứ; Chế độ lính tình nguyện; Kết quả của sự hi sinh. Phần đầu trong văn bản chính là mục Chiến tranh và người bản xứ. Phần này nói về tình cảnh của những người An-nam-mít và những người nô lệ da đen phải làm bia đỡ đạn cho bọn thực dân Pháp và bị đối xử một cách vô cùng tàn nhẫn.
Trước khi có chiến tranh thì những thanh niên bản xứ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên An-nam-mít bẩn thỉu chỉ biết làm cu li kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị da tráng. Nhưng khi chiến tranh vừa bùng nổ, bọn thực dân đã sử dụng mọi thủ đoạn để lừa bịp và biến họ thành con yêu, bạn hiền của các quan cai trị. Không những thế họ còn được phong cho danh hiệu chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Nguyễn Ái Quốc đã rất khéo léo sử dụngthủ pháp tương phản để vạch trần giọng điệu bịp bợp của bọn thực dân cai trị. Thực chất là bọn thực dân bắt họ làm bia đỡ đạn, một cách đánh thuế máu vô cùng xảo quyệt. Các từ ngữ như chiến tranh vui tươi, lập tức họ biến thành, đùng một cái, được phong cho cái danh hiệu tối cao đã làm cho giọng văn châm biếm trở nên sâu cay, mỉa mai.
Nguyễn Ái Quốc nêu ra những mất mát đau thương của những thanh niên bản xứ bị bắt đi làm bia đỡ đạn. Họ phải xa lìa vợ con, phải rời bỏ quê hương, mảnh ruộng, đàn cừu. Họ đi phơi thây trên các chiến trường châu Âu. Biết bao cảnh chết chóc đau thương đã xảy ra. Họ chết vì thủy lôi: được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái; bị bỏ xác tại các vùng hoang vu tận Ban-căng, để lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ. Xương máu của họ, cái chết của họ thật vô nghĩa, hoặc anh dũng đưa tay cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ, hoặc lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống đốc. Tác giả đã kết hợp miêu tả với bình luận để mỉa mai, châm biếm cái thuế máu của bọn thực dân.
Những người lính thợ không bị bỏ xác trên các chiến trường thì lại bị đầu độc, phải lao động khổ sai, làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm để nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối. Những kẻ khôn khổ ấy đã khạc ra từng miếng phổi chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy! Đó là một sự cống hiến rùng rợn của người dân bản xứ đối với chiến tranh.
Những con sốdưới ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc thật sự có ý nghĩa. Bảy mươi vạn người ra đi thì có đến 8 vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Sốphận đau thương và những mất mát của người bản xứ đã được thể hiện một cách chi tiết qua các sốliệu Nguyễn Ái Quốc đưa ra.
Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng thành công các thủ pháp nghệ thuật như tương phản đối lập, kết hợp miêu tả với bình luận, sử dụng sốliệu... đặc biệt là giọng văn chua cay, châm biếm, mỉa mai để vạch trần và lên án những tội ác của bọn thực dân.Trong suốt 80 năm thông trị nước ta, thực dân Pháp đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí nhằm bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ. Khi đọc đoạn trích Thuế máu chúng ta được biết thêm một loại thuế có một không hai mà bọn thực dân đặt lên đầu nhân dân ta.