Lưỡng quốc Trạng nguyên - Mạc Đĩnh Chi
Tại sao Mạc Đĩnh Chi lại được gọi là “lưỡng quốc Trạng Nguyên”? Chúng ta cùng ngược dòng lịch sử về thời kì vua Trần Anh Tông (1304) để tìm hiểu những giai thoại nổi tiếng về ông.
Ông người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay. Nhà nghèo, cha mất sớm, ông sống bằng nghề kiếm củi nuôi thân. Sống trong cảnh nghèo khổ mồ côi, tướng mạo lại xấu xí nên ông thường bị người đời khinh rẻ. Vốn là người có tư chất thông minh, linh lợi, ông sớm nhận ra rằng chỉ có con đường học tập thành tài mới thoát khỏi cảnh nghèo khó đó. Chính vì thế mà ông ra sức học tập. Đến năm Giáp Thìn 1304, ông đỗ Trạng Nguyên. Nhưng chỉ vì tướng mạo xấu xí mà vua không muốn cho ông đỗ đầu. Ông đã làm bài phú bằng chữ Hán để nói rõ nỗi niềm của người có chí khí “ Ngọc tỉnh liên phú” (Sen trong giếng ngọc). Vua mến phục người tài cho vào bệ kiến giúp vua làm rạng ranh đất nước. Ông giữ chức từ Hàn lâm học sĩ đến chức Thượng thư và sau làm Tể tướng. Tể tướng Mạc Đĩnh Chi luôn dùng tài năng và phẩm chất cao đẹp để trị quốc và khiến người nước ngoài phải khâm phục. Kể về Mạc Đĩnh Chi, sách sử đã ghi lại rất chi tiết những giai thoại của ông trong các chuyến đi sứ nhà Nguyên như “Tại cửa ải”, “Buổi tiếp kiến đầu tiên”, “Bức tranh chim sẻ ở phủ Tể tướng”, “Bài minh cái quạt” hay như “Văn tế công chúa”. Nhưng giai thoại nổi tiếng nhất chính là nhờ “quay bài” nên Mạc Đĩnh Chi được vua Nguyên phong là “Lưỡng quốc trạng Nguyên” (Trạng nguyên hai nước).
Truyện kể lại khi vua Nguyên mời sứ thần Mạc Đĩnh Chi làm thơ vịnh đề lên quạt. Bị bất ngờ nên ông cũng “bí”. Bất giác nhìn thấy nét bút của sức thần Cao Ly, ông cũng đoán được ý viết và viết được bài vịnh cùng nội dung nhưng ý tứ hay và sâu sắc hơn nhiều. Và chính vì cảm mến tài văn của ông mà vua Nguyên đã đề lên quạt 4 chữ “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Cũng giống như bao đại công thần khác, về già, ông lại về với quê hương vui cùng chòm xóm, ngày ngày uống nước vối trò chuyện với những người dân quê.