Top 20 Phụ nữ vĩ đại nhất lịch sử Việt Nam

Green Apple 24405 3 Báo lỗi

Phụ nữ Việt Nam vẫn luôn được biết đến là những người tài sắc vẹn toàn, giàu đức hi sinh. Lịch sử sẽ luôn ghi nhớ công ơn của họ - những người phụ nữ vĩ đại. ... xem thêm...

  1. Hai chị em Trưng TrắcTrưng Nhị là tấm gương điển hình nhất về hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Ngay từ thuở đầu của lịch sử, Hai Bà Trưng đã vượt qua mọi định kiến hà khắc về phụ nữ của lễ giáo phong kiến để đứng lên cầm vũ khí, kéo quân ra trận, đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập. Ngay sau khi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà đánh vào Luy Lâu, khiến viên Thái thú Tô Định phải "cắt tóc, cạo râu, vứt bỏ ấn tín, trà trộn vào đám loạn quân tháo chạy về nước". Đúng như lời tuyên thệ của Hai Bà trước khi khởi nghĩa:


    Một xin rửa sạch nước thù

    Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng.


    Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử, với tên gọi Trưng Nữ vương.Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân Đông Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, tục truyền rằng vì không muốn chịu khuất phục, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng sông Hát Giang tuẫn tiết, địa danh Hát Môn - Hát Giang là nơi thánh tích Hai Bà dựng cờ khởi nghĩa chống quân Đông Hán xâm lược và cũng là nơi Hai Bà hóa thân vào cõi bất diệt. Đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng là Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt, ngôi đền Hát Môn cổ kính với nhiều hàng cây cổ thụ, khung cảnh trang nghiêm yên tĩnh quanh năm.

    Tranh Hai Bà Trưng khởi nghĩa
    Tranh Hai Bà Trưng khởi nghĩa
    Hai Bà Trưng
    Hai Bà Trưng

  2. Nối tiếp tinh thần của Hai Bà Trưng, sau gần 2 thế kỷ, vùng núi Cửu Chân (Thanh Hóa) xuất hiện phụ nữ anh hùng khác là Triệu Thị Trinh.


    Triệu Thị Trinh hay Triệu Quốc Trinh, Triệu Ẩu, hay Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân (nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) trong một gia đình hào trưởng. Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người.


    Nhân dân còn truyền tụng các câu nói đầy khí phách của bà: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người!”


    Năm 248, Bà Triệu phất cờ khởi nghĩa ở vùng núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa). Đông đảo nhân dân khắp hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ (Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ) nổi dậy hưởng ứng. Bà Triệu đã chỉ huy nghĩa quân đánh thắng nhiều trận, quân Ngô tan rã. Bọn quan lại thống trị từ Thứ sử Giao Châu trở xuống đến các huyện lệnh đều bị giết hoặc chạy trốn. Cả Giao Châu chấn động.

    Nhà Ngô phải cử danh tướng Lục Dận đem quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân đã chiến đấu anh dũng, kiên cường nhưng vì lực lượng quân sự còn yếu nên đã thất bại. Bà Triệu Thị Trinh hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa).Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là Đền thờ chính của Bà Triệu, cạnh quốc lộ số 1, thuộc Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa. Hội đền hằng năm vào ngày 21 tháng hai âm lịch. Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu là một cuộc khởi nghĩa lớn, có thanh thế vang dội, là đỉnh cao của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ II, III. Cho đến nay, nhân dân cả nước còn lưu truyền hình ảnh Bà Triệu và hoạt động của quân khởi nghĩa.

    Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.


    Đền thờ Bà Triệu ở Thanh Hóa
    Đền thờ Bà Triệu ở Thanh Hóa
    Triệu Thị Trinh (Bà Triệu)
    Triệu Thị Trinh (Bà Triệu)
  3. Nguyên phi Ỷ Lan là phi tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông, mẹ ruột của Hoàng đế Lý Nhân Tông, thụy hiệu là Linh Nhân Phù Thánh hoàng hậu. Thân phụ của bà là Lê Công Thiết, thân mẫu là Vũ Thị Tình, bà hạ sinh được Hoàng thái tử Lý Càn Đức và Minh Nhân vương. Bà đã hai lần đăng đàn nhiếp chính, đưa đất nước dưới triều Lý phát triển hưng thịnh, những đóng góp cho triều Lý nhất là về Phật giáo và tài năng trị nước của bà đều được sử gia khen ngợi và tán dương.


    Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: năm Giáp Thìn (1064), vua Lý Thánh Tông đến chùa Thổ Lỗi cầu tự và mở hội tuyển cung nữ. Song có nguồn lại cho rằng mùa xuân năm 1063, vua Lý Thánh Tông cầu tự ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), qua hương Thổ Lỗi nhìn thấy người con gái tựa vào cây lan và cất tiếng hát trong treo nên đưa người con gái đó vào cung. Khi vào cung, bà được phong làm Ỷ Lan phu nhân, nơi ở là Du Thiền các.


    Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, Nguyên phi được vua trao quyền điều khiển chính sự với sự giúp sức của Lý Đạo Thành – Thái sư đầu triều đương thời. Ở lần thứ nhất đăng đàn nhiếp chính, Nguyên phi giúp sức nội trị, cảm hóa được lòng dân, trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật Giáo, dân gọi bà là Quan Âm.


    Tuy vậy, để có thể có quyền hành nhiếp chính đất nước lần thứ hai, bà đã mưu kế dựa vào Lý Thường Kiệt, phế truất và sát hại Thái hậu nhiếp chính tiền nhiệm là Thượng Dương Hoàng thái hậu. Lúc này, bà được tôn làm Hoàng thái hậu nhiếp chính. Việc làm này đã gây nên nhiều tranh cãi xung quanh bà.

    Tượng Nguyên phi Ỷ Lan
    Tượng Nguyên phi Ỷ Lan
    Nguyên phi Ỷ Lan (1044 – 1117)
    Nguyên phi Ỷ Lan (1044 – 1117)
  4. Từ Thục phu nhân tên thật là Nhữ Thị Thục, người làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, xứ Hải Dương, nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.


    Bà sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng danh giá, con gái của quan Thượng thư bộ hộ, tiến sĩ Nhữ Văn Lan dưới thời vua Lê Thánh Tông. Mặc dù xuất thân quý tộc nhưng ngoài 20 tuổi bà mới kết duyên cùng ông Nguyễn Văn Định – một thầy đồ ít tiếng tăm, vốn không phải dòng dõi danh gia, sinh trưởng tại huyện Vĩnh Lại, nay là Vĩnh Bảo, nằm cách huyện Tiên Minh một khúc sông nhỏ. Tương truyền, bà đã tính toán cẩn thận ngày giờ hợp cẩn để sinh ra Nguyễn Văn Đạt (tên khai sinh của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bà cũng chính là người có sức ảnh hưởng lớn trong giáo dục cũng như hình thành nhân cách của con mình.


    Bà là hình mẫu người phụ nữ rất hiếm gặp trong lịch sử Việt Nam: thông minh, quyết đoán, học rộng, giỏi văn chương, kinh sử, lại tinh thông cả dịch lý, tướng số, mang chí lớn của bậc trượng phu. Bà tâm niệm rằng: nếu không lấy được chồng làm vua thì con bà sinh ra sau này cũng phải làm vua một nước. Sau này, bà được vua Mạc phong tặng cho tước hiệu Từ Thục phu nhân.

    Từ Thục phu nhân hình thành lên nhân cách của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
    Từ Thục phu nhân hình thành lên nhân cách của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
    Từ Thục phu nhân hình thành lên nhân cách của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
    Từ Thục phu nhân hình thành lên nhân cách của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
  5. Nghi Thiên Chương Hoàng hậu hay Từ Dụ Hoàng thái hậu tên thật là Phạm Thị Hằng, xuất thân từ dòng họ Phạm Đăng thị, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định, nay là thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang. Phụ thân bà là Phạm Đăng Hưng – danh thần của nhà Nguyễn, mẫu thân bà là Phạm phu nhân.


    Bà là chính thất Quý phi của Thiệu Trị Hoàng đế, mẹ ruột của vua Tự Đức. Từ Dụ Hoàng thái hậu nổi tiếng là một người đức hạnh, xuất thân cao quý, thông kinh sử, có đức hiền, biết yêu dân thương con. Bà hạ sinh được hai công chúa, một hoàng tử và tại vị ở triều đình Huế trong vòng 55 năm, từ lúc bà trở thành Hoàng thái hậu dưới thời Tự Đức năm 1847 cho đến khi qua đời vào năm 1902 dưới thời Thành Thái.


    Danh hiệu của bà được đặt cho Bệnh viện phụ sản lớn nhất ở TP. Hồ Chí Minh – Bệnh viện Từ Dũ.

    Từ Dụ Hoàng thái hậu
    Từ Dụ Hoàng thái hậu
    Từ Dụ Hoàng thái hậu (1810 – 1902)
    Từ Dụ Hoàng thái hậu (1810 – 1902)
  6. Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung Hoàng hậu tên thật là Lê Ngọc Hân, là công chúa tài sắc vẹn toàn nhà Hậu Lê. Ngọc Hân công chúa là con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông, thân mẫu là Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, người xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội.


    Năm 1786, Ngọc Hân vâng mệnh vua cha kết duyên cùng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, khi đó bà mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 33 tuổi.


    Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung đã phong cho Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng hậu. Đến năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, ông lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng hậu.


    Ngọc Hân công chúa hạ sinh được 2 người con: công chúa Nguyễn Ngọc Bảo và hoàng tử Nguyễn Quang Đức. Khi Quang Trung băng hà (năm 1792), bà đã viết bài Tế vua Quang Trung và Ai Tư Vãn để bày tỏ nỗi đau khổ cùng cực cũng như niềm tiếc thương vô hạn cho người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Triều đình Tây Sơn cũng lâm vào cảnh suy thoái, khiến cô cùng hai con nhỏ phải gắng gượng. Đến năm 1799, Ngọc Hân mất, vài năm sau đó hai người con của cô cũng qua đời.

    Ngọc Hân công chúa
    Ngọc Hân công chúa
    Ngọc Hân công chúa (1770 – 1799)
    Ngọc Hân công chúa (1770 – 1799)
  7. Lý Chiêu Hoàng còn gọi là Lý Phế hậu hay Chiêu Thánh hoàng hậu, vị Hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lý từ năm 1224 đến năm 1225. Trong lịch sử Việt Nam, bà là vị Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất, đặc biệt hơn là được chính Phụ hoàng Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù bên trong là sự sắp đặt đầy cưỡng ép của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, hiện đang nắm quyền lực trong triều.

    Năm 1226, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành Chiêu Thánh hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 (lúc đó Chiêu Hoàng 19 tuổi), vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi. Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính là chị ruột của bà.

    Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Thái Tông. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm. Cuộc đời của bà đầy phức tạp và bi kịch, trở thành nguồn cảm hứng của rất nhiều tác phẩm thi ca nhạc họa.

    Trong lịch sử Việt Nam, Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất
    Trong lịch sử Việt Nam, Lý Chiêu Hoàng là vị Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất
    Lý Chiêu Hoàng
    Lý Chiêu Hoàng
  8. Hoàng Thị Loan (thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh) sinh năm 1868 trong một gia đình Nho học, nhưng mọi người trong gia đình đều trực tiếp tham gia lao động. Bà có dung nhan xinh đẹp, duyên dáng, tính tình thùy mị, nết na, luôn vui vẻ hòa nhã với mọi người, chăm chỉ làm công việc. Bà lớn lên đã tiếp thu sự giáo dục tiến bộ của gia đình, bà thuộc rất nhiều làn điệu câu ví và sự thông hiểu đạt tới mức sâu sắc.


    Bà đã chấp nhận cuộc sống vất vả, khó khăn khi kết hôn với ông Nguyễn Sinh Sắc vào cuối năm 1883 - một người mồ côi cả cha lẫn mẹ nhưng hiếu học. Bà hạ sinh được 4 người con và bằng tất cả tấm lòng yêu chồng, thương con, Bà đã hi sinh tất cả để vun đắp nên cuộc đời và sự nghiệp đẹp đẽ của họ. Bà Hoàng Thị Loan đã ảnh hưởng đến Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng một nền văn hoá dân gian mang đậm bản sắc địa phương, truyền thống dân tộc, phản ánh trung thực những khát vọng ý chí và phẩm chất của tầng lớp lao động bình dân.


    Ngày 10 tháng 2 năm 1901 (tức ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý) tại Kinh đô Huế, Bà đã qua đời ở tuổi 33 do lao động quá sức, cuộc sống thiếu thốn dẫn đến lâm bệnh nặng.


    Để bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với người đã có công sinh thành và dưỡng dục Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1984, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh (cũ) và lực lượng vũ trang Quân khu 4 xây dựng khu mộ của Bà khang trang, đẹp đẽ.

    Bà Hoàng Thị Loan
    Bà Hoàng Thị Loan
    Khu mộ bà Hoàng Thị Loan (1968 – 1901)
    Khu mộ bà Hoàng Thị Loan (1968 – 1901)
  9. Nguyễn Thị Định còn được gọi là Ba Định có bí danh là Bích Vân, Ba Tấn, Ba Nhất và Ba Hận là nữ tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.


    Bà xuất thân từ gia đình nông dân tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre và bắt đầu tham gia Cách mạng từ phong trào Đông Dương đại hội năm 1936 với vai trò liên lạc, rải truyền đơn, vận động bà con chống lại sự áp bức, bóc lột ở địa phương.


    Bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1938 và tiếp tục tham gia các Phong trào cách mạng. Trong quá trình đó, bà đảm nhận chức vụ Phó bí thư Tỉnh ủy bến Tre, và là người trực tiếp chỉ đạo cuộc Đồng khởi Bến Tre đợt I (17/1/1960) ở ba điểm xã Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp thắng lợi, mở đầu cho phong trào Đồng khởi. Sau cuộc Đồng khởi, bà làm Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch Mặt trận Giải phóng tỉnh Bến Tre. Bà được Liên Xô trao tặng Giải thưởng Hòa bình Lênin năm 1968.


    Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước như: Ủy viên Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội VIệt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,... và Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Bà được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1995 - ba năm sau khi bà mất. Đền thờ bà được lập tại ấp Phong Điền, xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, tên của bà cũng được đặt cho nhiều tuyến đường và trường học ở Việt Nam.

    Nữ tướng Nguyễn Thị Định
    Nữ tướng Nguyễn Thị Định
    Nữ tướng Nguyễn Thị Định (1920 – 1992)
    Nữ tướng Nguyễn Thị Định (1920 – 1992)
  10. Bà là vợ của Vua Bảo Đại, ông vua cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ham chơi, bù nhìn cho Pháp, nhưng bà là một Hoàng hậu có đủ phẩm cách, một phụ nữ hiền thục, nhân từ và đạo đức, đúng với cái tên của Bà - Nam Phương-hương thơm của phương Nam.


    Bà tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 14-12-1914, tại Gò Công, tỉnh Tiền Giang, trong một gia đình giàu có vào bậc nhất Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Mặc dù quê ở Tiền Giang nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan mang quốc tịch Pháp với tên Pháp là Mariette Jeanne, sống và học tại Sài Gòn. Năm 12 tuổi, Thị Lan được gửi sang Pháp học trường nữ sinh danh tiếng tại Paris. Tháng 9-1932, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, Nguyễn Hữu Thị Lan về nước.


    Thời gian làm Hoàng hậu của bà Nam Phương chỉ kéo dài hơn 10 năm, kể từ năm 1934 đến năm 1945 khi Vua Bảo Đại buộc phải thoái vị do cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử. Ngày 30 tháng 8 năm 1945, trong tuyên bố thoái vị, Vua Bảo Đại nói: Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm vua một nước nô lệ. Đây cũng là dấu mốc chấm dứt tham vọng chính trị của Nam Phương và bà phải sống một cuộc đời xa xứ, cô đơn lạnh lẽo cho đến cuối đời.

    Trong khí thế cách mạng của toàn dân quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng, tại Huế, Hoàng hậu Nam Phương đã thể hiện tinh thần yêu nước của mình. Ngày 17 tháng 9 năm 1945, Bà là người đầu tiên đến nơi Mặt trận Việt Minh tổ chức “Tuần lễ vàng” tại Huế, tự nguyện tháo hết trang sức bằng vàng mang trên người hiến tặng cho cách mạng. Tại đây, Bà được gắn một huy hiệu in cờ đỏ sao vàng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, bà Nam Phương đã viết một thông điệp gửi cho bạn bè Á châu đề nghị họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lược của Pháp. Thông điệp đó được Nhà sử học Pháp Jean Renaud ghi lại trong một cuốn sách do Nhà Xuất bản Guy Boussac ấn hành tại Pháp năm 1949. Bà viết: “Kể từ tháng 3 năm 1945 nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp. Nhưng vì lòng tham của thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động này của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi. Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các Chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào chúng tôi”.


    Với tư cách hoàng hậu, Nam Phương đã giúp cho vua Bảo Đại trong các hoạt động ngoại giao, đón tiếp các quốc khách, giao thiệp với Pháp. Nam Phương là vị Đệ nhất phu nhân Việt Nam đầu tiên được giao phụ trách các công việc xã hội, làm khuyến học, khen thưởng học sinh giỏi, giúp đỡ người nghèo, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội.Hoàng hậu Nam Phương có với Bảo Đại 5 người con. Hai hoàng tử và ba công chúa.

    Nam Phương Hoàng hậu
    rời Việt Nam năm 1947. Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nước Pháp. Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963.

    Chân dung Nam Phương Hoàng hậu.
    Chân dung Nam Phương Hoàng hậu.
    Nam Phương Hoàng hậu
    Nam Phương Hoàng hậu
  11. Cuộc đời chị Võ Thị Sáu trở thành huyền thoại, sống mãi cùng dân tộc bởi "có những cái chết trở thành bất tử". Sinh ra và lớn lên trên miền quê giàu truyền thống yêu nước, lại chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào, chị Sáu đã không ngần ngại cùng các anh trai tham gia cách mạng.


    Tháng 11/1948, Võ Thị Sáu mang theo lựu đạn, trà trộn vào đám người đi làm căn cước. Giữa buổi, chị ném lựu đạn vào nơi làm việc của Tòng, hô to “Việt Minh tấn công” rồi kéo mấy chị em cùng chạy. Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không dám truy lùng Việt Minh ráo riết như trước.


    Tháng 2/1950, Võ Thị Sáu tiếp tục nhận nhiệm vụ ném lựu đạn, tiêu diệt hai chỉ điểm viên của thực dân Pháp là Cả Suốt và Cả Đay rồi không may bị bắt. Trong hơn một tháng bị giam tại nhà tù Đất Đỏ, dù bị giặc tra tấn dã man, chị không khai báo. Địch phải chuyển chị về khám Chí Hòa. Chị Sáu tiếp tục làm liên lạc cho các đồng chí trong khám, cùng chị em tại tù đấu tranh đòi cải thiện cuộc sống nhà tù.


    Trước tinh thần đấu tranh quyết liệt của Võ Thị Sáu, thực dân Pháp và tay sai mở phiên tòa, kết án tử hình đối với nữ chiến sĩ trẻ. Chúng chuyển chị cùng một số người tù cách mạng ra nhà tù Côn Đảo.


    Nhờ sự kiên cường, dũng cảm, trung thành, Võ Thị Sáu được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam và công nhận là Đảng viên chính thức ngày đêm trước khi hy sinh.

    Chị Võ Thị Sáu nhiều lần được khen ngợi nhờ không ngại gian khó, dũng cảm tham gia chiến đấu, bảo vệ quê hương.
    Chị Võ Thị Sáu nhiều lần được khen ngợi nhờ không ngại gian khó, dũng cảm tham gia chiến đấu, bảo vệ quê hương.
    Chị Võ Thị Sáu
    Chị Võ Thị Sáu
  12. Gốc gác cung đình Huế, người phụ nữ có vẻ đẹp bề ngoài cổ điển Tôn Nữ Thị Ninh lại là điển hình vượt qua mọi định kiến. Mỗi khi xuất hiện, cho dù là ở hoạt động ngoại giao, giáo dục hay văn hóa, trong những cuộc nói chuyện với sinh viên hay hoạt động từ thiện, xã hội, bà lúc nào cũng gây ấn tượng về sự lịch thiệp, duyên dáng, và đặc biệt là tầm vóc trí tuệ.


    Trí tuệ mẫn tiệp, sắc sảo và tính cách sắt đá, cương quyết, bà đã công tác trong ngành ngoại giao hơn 20 năm, trở thành chiếc cầu nối thế giới và VN, đảm nhiệm rất nhiều vị trí quan trọng, hỗ trợ cho phái đoàn của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tại các vòng đàm phán Hiệp định Paris, đại sứ ở Bỉ, Luxembourg, kiêm trưởng phái đoàn đại diện VN với Liên minh Châu Âu tại Brussels (Bỉ), đại sứ đặc mệnh toàn quyền của VN tại Liên minh Châu Âu, Phó Chủ tịch Ủy ban đối ngoại quốc hội, Đồng chủ tịch nhóm đối thoại Việt-Mỹ về chất độc da cam/dioxin; Phó chủ tịch Ủy ban Hòa bình VN, Chủ tịch Hội đồng sáng lập Đại học Trí Việt…

    Trong suốt quãng đời hoạt động ngoại giao, nhiều lần bà khiến mọi người bất ngờ vì cách tranh luận thẳng thừng, khí khái, truyền thống được thừa hưởng từ gia đình gốc Huế, khác hẳn với vẻ bề ngoài dịu dàng, kín đáo mà vẫn quyến rũ. Là phụ nữ, để có thể hoạt động được trong ngành ngoại giao đã khó, kết hợp được cương - nhu càng khó hơn, và quan trọng nhất, theo bà, là phải không được khóc…

    Điều này đúng cả trong những chuyện lớn lao như khi phải đấu tranh cam go với các bên quanh bàn đàm phán để có thể giành được chiến thắng, tôn vinh dân tộc; mà cũng đúng ngay cả trong những chuyện đời thường như vượt qua định kiến về “phái yếu” vốn bị “đóng đinh” là nhỏ nhen, không có chiến lược, thiếu tầm nhìn… trong con mắt một nửa còn lại của thế giới.

    Vượt qua định kiến, lao vào gian khó và tỏa sáng với thành công rực rỡ, Tôn Nữ Thị Ninh tự chọn cho mình hình ảnh “ngọn lửa trên cao” để thể hiện một cuộc đời luôn rực cháy, thôi thúc bởi hoài bão và mong muốn truyền lửa tri thức và văn hóa đến giới trẻ.

    Bà Tôn Nữ Thị Ninh
    Bà Tôn Nữ Thị Ninh
    Bà Tôn Nữ Thị Ninh
    Bà Tôn Nữ Thị Ninh
  13. Với nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, cái tên Nguyễn Thị Bình đã trở nên quá đỗi thân quen, gần gũi.


    Nguyễn Thị Bình (sinh năm 1927) là một nữ chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam. Bà nổi tiếng trên thế giới khi giữ cương vị Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn 1968-1973. Bà là một trong những người đại diện các bên ký hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định. Bà cũng từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch nước Việt Nam từ 1992 đến 2002.


    Sau khi nghỉ hưu vào năm 2002, bà tiếp tục làm Chủ tịch của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam. Năm 2003, bà thành lập Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam và làm Chủ tịch của tổ chức này cho đến nay. Ngoài ra, bà cũng là Chủ tịch danh dự của Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam kể từ khi hội này được thành lập vào tháng 1/2004. Năm 2001, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng cho bà Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhận những công lao to lớn của bà đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

    Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình
    Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình
    Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình
    Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình
  14. Nữ tướng Bùi Thị Xuân là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, là chính thất của Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.


    Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền bà vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp, nữ công khéo, chữ viết đẹp, nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học bà thường mặc áo con trai, lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc.


    Sử gia Phạm Văn Sơn viết: "Người ta cảm phục Bùi Thị Xuân chẳng riêng chỗ bà có nhan sắc hơn người, mà còn ở chỗ có gan dạ và trí lược của một đại tướng. Người ấy đã có công gây dựng một phần sự nghiệp của chồng và của ba anh em vua Tây Sơn, đã bao phen xuất nhập chiến trường, vào sinh ra tử.."

    Nữ tướng Bùi Thị Xuân
    Nữ tướng Bùi Thị Xuân
    Nữ tướng Bùi Thị Xuân
    Nữ tướng Bùi Thị Xuân
  15. Nguyễn Thị Minh Khai tên khai sinh là Nguyễn Thị Vịnh (1 tháng 11 năm 1910 – 28 tháng 8 năm 1941) là nhà cách mạng Việt Nam, một trong những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn 1930–1940.


    Năm 1927, bà tham gia hoạt động trong phong trào công nhân ở Vinh và tham gia thành lập Tân Việt Cách mệnh Đảng, sau đó được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ. Năm 1930, bà gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện đảng viên tại Trường Thi, Bến Thủy. Sau đó, bà sang Hương Cảng làm thư ký cho lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ở văn phòng chi nhánh Đông phương bộ của Quốc tế Cộng sản. Năm 1931, bà bị bắt tại Hương Cảng, bị kết án và giam ở đây. Năm 1934, bà ra tù và được Đông phương bộ Quốc tế Cộng sản cử làm đại biểu chính thức đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Moskva cùng với Lê Hồng Phong.


    Năm 1936, bà được cử về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và được cử vào Xứ ủy Nam kỳ, giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, một trong những người lãnh đạo cao trào cách mạng 1936-1939 ở Sài Gòn. Thời gian này, bà lấy bí danh là Năm Bắc. Ngày 30 tháng 7 năm 1940, bà bị bắt (cùng với Ủy viên Trung ương Đảng Nguyễn Hữu Tiến - tác giả cờ đỏ sao vàng) ngay sau phiên họp của Xứ ủy Nam kỳ về phổ biến chủ trương khởi nghĩa và bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Tuy nhiên, bà vẫn liên lạc với bên ngoài và vẫn tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh. Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bà bị thực dân Pháp cho là tử hình và bị bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn.


    Tên của bà được đặt cho nhiều đường phố trên khắp Việt Nam như tại: thành phố Thái Bình, thành phố Hạ Long (từ đường Vũ Văn Hiếu đến hang Luồn), Đồng Hới (gần sân vận động), Đà Lạt (khu chợ đêm), Nha Trang (ngay cạnh quảng trường 2 tháng 4, từ đường Trần Phú đến đường Trần Nhật Duật), Đà Nẵng (gần nhà hát Trưng Vương),...

    Anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai
    Anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai
    Anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai
    Anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai
  16. Anh hùng Trần Thị Lý (tên thật Trần Thị Nhâm) là một nhà hoạt động cách mạng, nữ chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, tham gia trong chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, là nữ tù chính trị dưới các nhà tù Pháp-Mỹ và là Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam. Về phía chính quyền Việt Nam, bà được xem là một nữ chiến sĩ cách mạng trung kiên, gan dạ, dũng cảm, vì đã từng chịu nhiều cực hình, tra tấn dã man, vô nhân đạo trong các nhà tù của Pháp và chính quyền Ngô Đình Diệm mà vẫn bất khuất, không khai báo, kiên trì chịu đựng, không khuất phục.


    Tháng 2 năm 1992 bà được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Hình ảnh của bà đã từng là đề tài của thơ ca, nhạc, họa, phim ảnh, trong đó nổi tiếng nhất là bài thơ Người con gái Việt Nam của nhà thơ Tố Hữu. Tên bà được đặt cho một cây cầu bắc qua sông Hàn ở Đà Nẵng, hiện là một trong những cây cầu biểu tượng của thành phố Đà Nẵng.

    Anh hùng Trần Thị Lý
    Anh hùng Trần Thị Lý
    Anh hùng Trần Thị Lý
    Anh hùng Trần Thị Lý
  17. Anh hùng Lê Thị Hồng Gấm là một nhà cách mạng của Việt Nam, người đã tham gia vào công cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà sinh ra trong một gia đình nông dân lao động ở xã Long Hưng, thuộc địa phận huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).


    Tháng 12 năm 1967, Lê Thị Hồng Gấm đã tham gia cách mạng, và được phân công làm công tác giao liên xã. Cuối năm 1968 tổ còn lại duy nhất một mình cô. Đến tháng 12 năm 1968, cô trở thành xã đội phó, cùng lãnh đạo xã thuyết phục nhân dân bám đất, bám ruộng vườn sản xuất, ủng hộ cách mạng.

    Tháng 8 năm 1969, Lê Thị Hồng Gấm được cử làm trung đội phó du kích vành đai liên xã. Ngày 18 tháng 4 năm 1970, để chuẩn bị cho trận đánh đêm, cô cùng hai nữ du kích khác đi mua lương thực cho đồng đội. Khi ra giữa cánh đồng, các cô bị hai chiếc máy bay trực thăng của quân địch phát hiện. Trước tình hình đó, Lê Thị Hồng Gấm đã chỉ đường trốn thoát cho đồng đội, còn bản thân thì lợi dụng địa hình chiến đấu, đồng thời thu hút sự chú ý của quân địch về phía mình. Lúc này, 2 chiếc trực thăng lượn vòng uy hiếp, cô bắn trả, một chiếc bị rơi tại chỗ, chiếc thứ hai đổ quân bao vây, cô nổ súng diệt tiếp ba tên địch. Tuy nhiên, do số luong quân địch quá đông, mà hỏa lực lại tập trung bắn về phía cô, khiến cô bị thương quá nặng, đạn đã hết nên dùng chút sức lực đập gãy khẩu súng để vũ khí không rơi vào tay địch và dũng cảm hy sinh.

    Anh hùng Lê Thị Hồng Gấm
    Anh hùng Lê Thị Hồng Gấm
    Anh hùng Lê Thị Hồng Gấm
    Anh hùng Lê Thị Hồng Gấm
  18. Mẹ Suốt, tên thật Nguyễn Thị Suốt (1908-1968), là một nữ Anh hùng Lao động trong Chiến tranh Việt Nam, người đã lái đò chở bộ đội, thương binh, đạn dược qua sông Nhật Lệ trong những năm 1964 - 1967.


    Năm 1964, sau Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Mỹ bắt đầu đem quân đánh phá miền Bắc. Miền đất Quảng Bình là một trong những trọng điểm đánh phá của máy bay và hải quân Mỹ, với mục đích nhằm ngăn chặn việc chi viện của miền Bắc cho lực lượng cách mạng miền Nam. Lúc đó, bà đã 58 tuổi nhưng vẫn xung phong nhận công việc chèo đò chở cán bộ, thương binh và vũ khí qua sông, giữ vững thông tin liên lạc giữa hai bờ. Kể từ đó, trong suốt những năm 1964 - 1966, bà vẫn giữ vững nhiệm vụ của mình, đã chèo hàng trăm lượt ngay cả những lúc máy bay Mỹ ném bom oanh tạc ác liệt. Bà được những người cán bộ và bà con gọi với tên quen thuộc Mẹ Suốt. Tổng cộng ước tính mỗi năm mẹ Suốt qua lại đến 1400 chuyến.


    Trong Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1966 tổ chức ở miền Bắc, mẹ Suốt được mời tham dự. Ngày 1 tháng 1 năm 1967, bà được phong tặng danh hiệu Anh hùng ngành Giao thông vận tải trong chống Mỹ cứu nước.

    Cuối năm 1968, khi chiến tranh trở nên ác liệt hơn, bà ngừng công việc chèo đò, di chuyển lên vùng cao hơn. Ngày 21 tháng 8 năm 1968, trong một lần đi ở bến đò Bảo Ninh sơ tán ở phía nam cách bến đò cũ 3 km, mẹ Nguyễn Thị Suốt mất trong một trận bom bi oanh tạc Mỹ. Sau đó bà được Nhà nước công nhận liệt sĩ.

    Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Suốt
    Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Suốt
    Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Suốt
    Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Suốt
  19. Nguyễn Thị Thứ (1904 – 2010) là người được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bà có chồng, 9 người con trai, một con rể và 2 cháu ngoại là liệt sĩ, là người mẹ có nhiều con cháu hy sinh nhất trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp chống Mỹ kéo dài gần 30 năm (từ năm 1948 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975). Bà trở thành bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu, được lấy làm nguyên mẫu xây dựng tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam trong dịp kỷ niệm 60 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ.


    Trong hai cuộc Chiến tranh chống Pháp chống Mỹ, Nguyễn Thị Thứ lần lượt nhận 9 giấy báo tử của các con. Tại khu vườn của nhà bà có 5 hầm bí mật, nơi bà và con gái đầu Lê Thị Trị nuôi giấu nhiều cán bộ, bộ đội, du kích Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Trên miệng hầm bà thả hàng chục con bò ăn cỏ ngay trong vườn. Lúc không có quân đối phương, hai mẹ con bà mở hé cửa hầm cho họ dễ thở, khi có động thì lại giả vờ đi coi bò để chỉnh sửa, ngụy trang lại miệng hầm.

    Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ
    Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ
    Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ
    Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ
  20. Huyền Trân công chúa là công chúa đời nhà Trần, Hòa thân công chúa, là con gái của Trần Nhân Tông, em gái của Trần Anh Tông, chính thê vua Chế Mân. Câu chuyện về Huyền Trân công chúa được truyền tụng trong dân gian, không chỉ vì lý do chính trị mà còn về khía cạnh văn hóa thơ, ca nhạc cũng như nghệ thuật sân khấu. Điều này khiến Huyền Trân công chúa trở thành công chúa nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam.


    Huyền Trân công chúa có công giúp nước lấy được hàng ngàn dặm đất, làm bàn đạp cho sự nghiệp Nam tiến về sau. Năm 1306, Huyền Trân công chúa được gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân (tiếng Phạn: Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên Huế đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Một năm sau, Chế Mân chết, Huyền Trân công chúa được Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung đưa về.

    Huyền Trân công chúa
    Huyền Trân công chúa
    Huyền Trân công chúa
    Huyền Trân công chúa



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy