Top 12 Loài động vật hoang dã sắp bị tuyệt chủng trên thế giới

Tran Thao 51583 0 Báo lỗi

Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loài động vật hoang dã đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng đang rất cần sự chung tay giúp sức bảo vệ của con người. Dưới đây ... xem thêm...

  1. Top 1

    Báo Amur

    Báo Amur là một loài động vật quý hiếm thuộc họ mèo đến từ vùng Viễn Đông Nga, sở hữu tốc độ chạy rất nhanh khoảng 60 km/h và nhảy cao tới gần 6 m so với mặt đất. Chúng còn được biết đến với tên gọi báo Viễn Đông, beo Mãn Châu hay báo Hàn Quốc là một trong những loài mèo lớn hiếm nhất thế giới. Hiện nay loài động vật này gần như bị xóa sổ và hiện đang được sự chăm sóc đặc biệt tại các vườn quốc gia của Nga. Vào năm 2015, theo ghi nhận được báo cáo thì báo Amur chỉ còn tồn tại khoảng 60 cá thể. Chúng được tìm thấy ở khu vực biên giới rừng trải dài giữa vùng Viễn Đông Nga và Trung Quốc. Đây là loài cực kì nguy cấp, và tổ chức WWF (World Wild Fund) đã và đang hợp tác với cộng đồng địa phương, chính quyền khu vực, chính phủ và những tổ chức phi chính phủ khác nhằm cứu lấy báo Amur và đảm bảo cho khu vực chúng sinh sống có tính chất bảo tồn lâu dài.


    Màu lông báo Amur sáng hơn hầu hết loài báo khác và có hoa văn to, sậm màu, rải rác với những vòng dày, không đứt quãng. Chúng nặng từ 70-105 pound ( 31 đến 48 kg). Do thích nghi cực tốt trong điều kiện lạnh ở Viễn Đông Nga, chúng có bộ lông dày, độ dày có thể phát triển lên đến 7cm vào mùa đông. Nguyên nhân chính mà báo Amur bị săn là vì bộ lông đẹp của chúng. Nguyên nhân khác là tình trạng thiếu con mồi vì thức ăn của chúng là hươu sao, hoẵng, thỏ rừng thì bị dân địa phương săn bắt vì nhu cầu thức ăn và thu nhập. Báo Amur cũng bị đe dọa do mất môi trường sống. Loài này rất quan trọng trong vòng tròn sinh thái. Chúng là những loài săn mồi trên đỉnh chuỗi thức ăn, tức là giữ vai trò lớn qua việc cân bằng số lượng các loài khác tại môi trường sống quanh chúng. Điều này ảnh hưởng đến tình trạng của rừng và sinh thái, cung cấp cho môi trường tự nhiên và con người đa dạng thức ăn, nước sạch và nhiều tài nguyên khác. Bảo tồn môi trường sống của báo Amur cũng đem lại lợi ích cho loài khác, bao gồm hổ Amur và con mồi như hoẵng, nai...Loài báo này có đôi chân nhanh và khỏe. Chúng mang và giấu con mồi lên những cành cây để không bị động vật săn mồi khác cướp. Chúng được xem là có kĩ năng rình và leo giỏi nhất trong họ mèo lớn, với sức mạnh đáng nể, chúng có đủ khả năng để hạ gục con mồi nặng hơn chúng 10 lần.

    Báo Amur là một loài động vật quý hiếm thuộc họ mèo đến từ vùng Viễn Đông Nga
    Báo Amur là một loài động vật quý hiếm thuộc họ mèo đến từ vùng Viễn Đông Nga
    Báo Amur
    Báo Amur

  2. Trong khoảng 60 năm qua, số lượng cá thể loài đười ươi có vóc dáng vô cùng đặc biệt này, đã giảm tới 50%. Sinh sống trên đảo Borneo, hòn đảo lớn nhất Châu Á, đười ươi Borneo có khuôn mặt to và bộ râu ngắn hơn nhiều so với các anh em họ khác của mình. Đười ươi Borneo bao gồm ba nhánh, phân bố ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc và trung tâm. Tuy nhiên, số lượng đông đảo sống ở giữa đảo có khoảng 35.000 con. Cho đến nay, số lượng loài này chỉ còn khoảng 1.500 do môi trường sống bị tàn phá nặng nề bởi các vấn nạn khai thác gỗ, săn bắn,...Theo các nhà khoa học dự đón thì đến năm 2025 thì 22% là số lượng đười ươi Borneo tiếp tục bị giảm.

    Đười ươi Borneo, heo vòi châu Á có khả năng bị xóa sổ dự kiến sẽ được Vinpearl Safari, Phú Quốc tiếp nhận và bảo tồn. Hội thảo Bảo tồn loài heo vòi và đười ươi Borneo châu Á, do Hiệp hội vườn thú Đông Nam Á (SEAZA) tổ chức tại Vinpearl Safari ngày 4-5/5 có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý, bảo tồn hai loài động thuộc nhóm nguy cấp trong sách đỏ thế giới. Trong số những loài động vật thuộc nhóm báo động đỏ, đười ươi Borneo và heo vòi châu Á được xếp vào phụ lục I, tức danh sách động, thực vật hoang dã nguy cấp của Công ước CITES. Vì vậy, đây được xem là hai loài động vật quý hiếm đang trên đà sụt giảm số lượng nghiêm trọng, cần có những chương trình bảo tồn ngay, ở quy mô toàn cầu.

    Đười ươi Borneo bao gồm ba nhánh, phân bố ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc và trung tâm
    Đười ươi Borneo bao gồm ba nhánh, phân bố ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc và trung tâm
    Đười ươi Borneo
    Đười ươi Borneo
  3. Khỉ đột núi có tên khoa học là Mountain gorillas và số lượng của loài này hiện nay trên thế giới là dưới 900 cá thể. Hiện nay, khu vực sinh sống chính của loài này chủ yếu ở ba nước và bốn công viên quốc gia, bao gồm vườn quốc gia Bwindi ở Uganda và vườn quốc gia Virunga ở Congo. Duy trì số lượng hiện tại là một việc làm rất khó khăn, đòi hỏi các nhà hoạt động vì động vật phải làm mọi cách có thể. Bên cạnh đó điều đáng lo ngại nhất là tình trạng chiến tranh, thoái hóa rừng hay sự xâm lấn của con người đang dần lấn áp sự gia tăng của loài, đe dọa đến sự tồn tại của chúng. Khỉ đột núi là động vật Linh trưởng thuộc Họ Người, Chi Khỉ đột, thuộc loài Khỉ đột phía Đông, chúng là một trong những loài lớn nhất còn tồn tại tới bây giờ. Khỉ đột núi có hóa thạch được phát hiện cách đây 34-24 triệu năm (thế Oligocen) ở vùng châu Phi và Trung Đông, thế nhưng hiện nay chúng chỉ còn xuất hiện ở Uganda và Cộng hòa dân chủ Congo. Bề ngoài Khỉ đột núi có lớp lông dày và dài hơn các loài khỉ đột khác, cho phép chúng sinh tồn ở điều kiện thời tiết khắc nghiệt hơn. Kích thước con đực là khoảng 1,5 mét, nặng 180 kg – lớn gấp đôi con cái.


    Giống như nhiều loài Linh trưởng khác, chúng có cánh tay dài hơn chân, di chuyển trên mặt đất bằng cả tứ chi, trọng lượng dồn lên ngón tay chứ không phải lòng bàn tay. Khỉ đột núi hoạt động tích cực nhất từ khi bình minh tới hoàng hôn, chúng có thói quen chia làm 3 bữa một ngày là buổi sáng, giữa trưa và buổi chiều. Khỉ đột núi thường sống ở các sườn núi của các ngon núi lửa đang hoạt động như Karisimbi, Mikeno và Visoke, CH Dân chủ Congo. Chúng ở độ cao 2200-4000 mét, nơi có khí hậu nhiều mây, sương mù, lạnh cùng thảm thực vật dày ở chân núi và thưa dần ở nơi có vị trí cao. Theo các báo cáo của các vườn quốc gia nơi sinh sống của Khỉ đột núi, các nguyên nhân dẫn tới việc đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng là do nạn săn trộm – Khỉ đột núi thường bị thương tật vĩnh viễn do bẫy của những tay săn thú hoang hoặc bắt cá thể con tới các sở thú. Lấn chiếm nơi ở – Việc mở rộng nhanh chóng các khu định cư của người dân xung quanh hành lang an toàn của vườn quốc gia. Dịch bệnh – Khỉ đột núi thường xuyên được tiếp xúc với các đoàn khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới, chúng hoàn toàn có thể nhiễm bệnh truyền từ người. Chiến tranh, bất ổn chính trị – Dòng người tị nạn đổ về khu vực rừng núi, chặt cây cối và săn Khỉ đột lấy thịt để phụ vụ cuộc sống tạm bợ.

    Khỉ đột núi có tên khoa học là mountain gorillas
    Khỉ đột núi có tên khoa học là mountain gorillas
    Khỉ đột núi
    Khỉ đột núi
  4. Top 4

    Sao la

    Nhiều người vẫn gọi Sao la, một loài động vật hoang dã quý hiếm là "kỳ lân Châu Á". Khu vực sinh sống chủ yếu của loài này là ở vùng núi Việt Nam và Lào. Nhìn bề ngoài thì Sao La có vẻ giống với loài linh dương hay bò rừng bison và là loài động vật nhai lại. Có thể nói loài động vật này thuộc hàng cực kỳ hiếm và rất khó để bắt gặp. Ngoài môi trường hoang dã, cho đến nay, các nhà khoa học chỉ gặp chúng được bốn lần nên chưa thể biết chính xác số lượng cá thể còn lại là bao nhiêu.


    Sao La có tên khoa học là Pseudoryx nghetinhensis, thuộc nhóm thú sừng rỗng, giống loài Linh Dương. Đây là loài thú quý hiếm có tên trong sách đỏ thế giới và sách đỏ Việt Nam. Sao la có chiều dài từ 1,3m - 1,5m, cao 90cm với trọng lượng khoảng 100kg. Da màu nâu sẫm, trên mỗi móng có một đốm trắng. Sừng dài và mảnh dẻ, hướng thẳng về phía sau và có thể dài đến 51cm. Sao la có đặc tính lẩn trốn con người nên các nhà khoa học chưa thể đánh giá được số lượng chính xác của quần thể sao la. Có thể còn khoảng 200 hoặc chỉ còn vài chục cá thể sao la ở các cánh rừng rậm dọc biên giới Việt - Lào. Ngoài ra, cả Sao La đực và cái đều có sừng dài, nhọn và không phân nhánh. Ở Việt Nam, Sao La từng được tìm thấy ở một số nơi thuộc dãy Trường Sơn như Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh... Đây là một trong những loài thú hiếm nhất trên thế giới được các nhà khoa học phát hiện năm 1992. Việc phát hiện này cũng là một trong những phát hiện quan trọng về động vật trong thế kỷ 20.

    Khu vực sinh sống chủ yếu của loài này là ở vùng núi Việt Nam và Lào
    Khu vực sinh sống chủ yếu của loài này là ở vùng núi Việt Nam và Lào
    Sao La
    Sao La
  5. Đồi mồi có cái tên khoa học là hawksbill turtles, môi trường sống chủ yếu là các vùng biển nhiệt đới trên thế giới. Hiện nay loài động vật hoang dã này đang đứng bên bờ vực tuyệt chủng bởi sự săn bắt của con người. Chỉ trong thời gian một thế kỷ, số lượng đồi mồi đã giảm đến con số 80%. Hiện nay, các tổ chức bảo vệ động vật hoang dã đã không ngừng bảo vệ loài này khỏi nguy cơ tuyệt chủng nhưng con người thì vẫn không ngừng tiêu thụ trứng của chúng để làm thức ăn, giết thịt hay lấy mai của chúng.


    Đồi mồi là một loài rùa biển. Đây là loài duy nhất trong chi Eretmochelys. Loài này phân bố khắp thế giới, với hai phân loài Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Bề ngoài thì đồi mồi trông giống như các loài rùa biển khác. Cơ thể tương đối dẹp, mai lớn để bảo vệ cơ thể, và các chi giống mái chèo. Việc con người săn bắt các quần thể đe dọa E. imbricata tuyệt chủng. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế xếp loại đồi mồi ở cấp cực kỳ nguy cấp. Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) cấm săn bắt và thương mại các sản phẩm từ đồi mồi vì mọi mục đích. Các quần thể rùa biển dọc vùng biển Việt Nam đã chịu những tác động mạnh mẽ của con người trong nhiều thập kỷ. Rùa biển và trứng của chúng đã bị khai thác làm thức ăn, làm thuốc, bị buôn bán và sử dụng để chế tác mai rùa, mẫu nhồi và đồ mỹ nghệ. ..các loài ngày càng hiếm nhất là Đồi mồi và Rùa da.


    Đầu thế kỷ 20, loài Đồi mồi (Eretmochelys imbricata) đã từng rất phổ biến ở vùng biển Việt Nam, tuy không có những thông tin chính xác số lượng của chúng trong thời điểm đó nhưng căn cứ vào kết quả khảo sát ước tính có khoảng 500 con lên đẻ tại các đảo khu vực vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và Côn Đảo. Hiện nay số lượng Đồi mồi lên đẻ và kiếm ăn tại vùng biển Việt Nam còn rất ít, nếu không có những biện pháp tích cực ngăn cấm việc đánh bắt hay buôn bán chúng, thì rất có thể Đồi mồi sẽ bị tuyệt chủng tại vùng biển Việt Nam trong thời gian tới.

    Đồi mồi đang đứng bên bờ vực tuyệt chủng bởi sự săn bắt của con người
    Đồi mồi đang đứng bên bờ vực tuyệt chủng bởi sự săn bắt của con người
    Đồi mồi
    Đồi mồi
  6. Hổ Nam Trung Quốc là loài hổ đang bị đe dọa nghiêm trọng nhất trên thế giới. Trong thế giới động vật, chỉ còn khoảng 24 cá thể hổ tồn tại ở Trung Quốc và Nam Phi. Theo Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), phân loài này rất có thể đã bị tuyệt chủng bởi lẽ chúng chưa từng được nhìn thấy trong tự nhiên từ khoảng hai thập kỷ gần đây. Trong sách đỏ của IUCN, hổ Hoa Nam đã bị liệt kê vào danh sách động vật "cực kỳ nguy cấp".


    Vào giữa thế kỷ 20, những con hổ này bị săn bắt để lấy các bộ phận cơ thể phục vụ cho y học cổ truyền Trung Quốc. Chúng cũng bị giết vì bị con người coi là loài gây hại. Nơi sống của hổ Hoa Nam bao gồm miền Trung và miền Nam Trung Quốc, nơi đây còn từng là lãnh thổ của cả Hổ Bengal, Hổ Siberia và Hổ Đông Dương. Do dân số ngày càng tăng nên người ta đã dần phá hủy môi trường sống của hổ Hoa Nam để xây dựng nhà cao tầng. Bên cạnh đó, nạn săn bắn cũng góp phần làm cho số lượng loài này giảm sút.


    Chúng thường có mặt trong các khu rừng thường xanh, đầm lầy, rừng, đồng cỏ, rừng cây rụng lá, rừng nhiệt đới, sa mạc hay cả núi đá. Loài này đã được tiếp xúc với nhiều loại khí hậu, nhiệt độ và cả độ cao trên núi. Nơi sống của chúng phải bao gồm thật nhiều con mồi để hổ Hoa Nam có thể thỏa sức săn bắt và nguồn nước.

    Trên thế giới số lượng loài này chỉ còn khoảng 100 con
    Trên thế giới số lượng loài này chỉ còn khoảng 100 con
    Hổ Hoa Nam
    Hổ Hoa Nam
  7. Cá heo không vây Trường Giang (Yangtze finless porpoise) là một loài cá heo đến từ lưu vực sông Trường Giang và được biết là chúng có họ hàng gần gũi với cá heo Baiji. Loài động vật hoang dã này gây ấn tượng với vẻ bên ngoài "nhẵn nhụi" cùng một trí thông minh vượt bật. Tuy nhiên, hiện nay số lượng cá thể này chỉ còn khoảng từ 1.800 cho đến 2.000.


    Quần thể sống ở nước ngọt duy nhất (N. p. Asiaeorientalis) được tìm thấy trong sông Dương Tử. Tại phía tây, phạm vi phân bố của chúng bao gồm chiều dài của bờ biển phía Tây của Ấn Độ và tiếp tục vào vịnh Ba Tư. Trong suốt phạm vi phân bố, các cá heo ở vùng nước nông (lên đến 50 m), gần bờ, vùng biển với đáy biển hoặc cát mềm. Trong trường hợp đặc biệt, người ta đã thấy chúng ở cách bờ 160 km ngoài Biển Hoa Đông và Hoàng Hải, mặc dù vẫn còn trong vùng nước nông. Quần thể loài này giảm mạnh trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Trung Quốc và việc sử dụng sông quá mức trong việc đánh bắt cá, giao thông thuỷ, và thuỷ điện.


    Đã có nhiều nỗ lực để bảo tồn loài này nhưng cuộc thám hiểm cuối năm 2006 đã không tìm thấy cá thể nào trên sông. Nên loài này đã được tuyên bố là tuyệt chủng, nên nó được xem là loài động vật có vú đầu tiên trở nên tuyệt chủng đầu tiên kể từ khi Sư tử biển Nhật Bản và Monachus tropicalis tuyệt chủng vào thập niên 1950. Đây cũng là loài trong bộ Cá voi tuyệt chủng được nghiên cứu kỹ chịu tác động trực tiếp từ con người.

    Loài động vật hoang dã này gây ấn tượng với vẻ bên ngoài
    Loài động vật hoang dã này gây ấn tượng với vẻ bên ngoài "nhẵn nhụi"
    Cá heo không vây Trường Giang
    Cá heo không vây Trường Giang
  8. Voi Sumatra là một loài động vật hoang dã có trọng lượng cơ thể khổng lồ, cân nặng lên đến 5 tấn. Chúng được Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên WWF liệt kê vào sách đỏ vào năm 2012. Số lượng voi Sumatra trong môi trường hoang dã vào khoảng dưới 3.000 con. Hiện nay có khoảng từ 2.400 đến 2.800 con voi Sumatra còn sinh sống nơi hoang dã, con số này sụt giảm 50% so với số liệu thống kê được vào năm 1985, Cụ thể là số lượng voi Sumatra đã giảm nghiêm trọng từ 1.342 con năm 1985 xuống 210 con năm 2007, và đang giảm mạnh hơn nữa. Loài voi này đang có nguy cơ tuyệt chủng. Số lượng voi Sumatra chết hàng năm đang tăng lên, khiến số lượng của chúng tại Indonesia giảm xuống mức thấp nhất kể từ những năm 1980.


    Voi Sumatra đã cùng với đười ươi Sumatra, tê giác Java và tê giác Sumatra và hổ Sumatra nằm trong một danh sách ngày càng nhiều các loài thú có nguy cơ bị tuyệt chủng ở Indonesia. Nguyên nhân lượng voi này giảm nhanh là bị săn bắn trộm lấy ngà. Môi trường sống của chúng thu hẹp dần do các công ty dầu cọ mở rộng diện tích canh tác trên đất rừng, đồng thời sử dụng thuốc nổ, thậm chí cả chất độc để ngăn cản voi phá đồn điền. Nếu khuynh hướng bảo tồn rừng như hiện nay tiếp tục, thì voi Sumatra có thể bị tuyệt chủng nơi hoang dã trong chưa đầy 30 năm nữa.

    Voi Sumatra là một loài động vật hoang dã có trọng lượng cơ thể khổng lồ
    Voi Sumatra là một loài động vật hoang dã có trọng lượng cơ thể khổng lồ
    Voi Sumatra
    Voi Sumatra
  9. Tê tê vàng hay được biết đến tên gọi tê tê Trung Quốc, là một loài động vật hoang dã sinh sống ở các khu vực của Trung Quốc và Châu Á, như chân núi Himalaya của Nepal và các vùng phía Bắc Ấn Độ. Đây là một trong những loài động vật được liệt vào sách đỏ. Tuy nhiên, số lượng mỗi năm của loài này đang suy giảm đến mức báo động, 100.000 cá thể bị giết. Ngoài việc bị con người bắt để ăn thịt thì tình trạng buôn lậu tê tê vàng cũng diễn ra một cách nghiêm trọng. Tê tê vàng có tên khoa học là Manis pentadactyla. Đây là một trong những loài thuộc bộ tê tê sống chủ yếu ở bắc Ấn Độ, Nepal, Bhutan, miền nam Trung Quốc, Đông Dương,…Ở Việt Nam, tê tê vàng tập trung ở khu vực miền Bắc, miền Trung đến Lâm Đồng. Cùng với tê tê đất, kỳ đà vân, rùa núi viền,…thì loài tê tê vàng cũng là một trong những loài động vật bị đe dọa và cần được bảo vệ.

    Đặc điểm nổi bật của loài sinh vật này là toàn thân được phủ một lớp vảy giống như vảy cá. Phần đầu của tê tê nhỏ và nhọn, phần thân phình to hơn và có cái đuôi dài. Tê tê vàng trưởng thành có độ dài khoảng 40 – 58cm, trong đó phần đuôi dài khoảng 25 – 38cm. Trọng lượng của một con tê tê Trung Quốc khoảng từ 2 – 7kg. Trên thế giới, tê tê là loài động vật có vú duy nhất có vảy. Tê tê vàng là một sinh vật khá kín đáo, di chuyển chậm và sống về đêm. Chúng sống ở trong hang và cuộn tròn khi ngủ vào ban ngày. Hiện nay, tê tê Trung Quốc là một loài sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng cao và được đưa vào danh sách cấm săn bắt và buôn bán trên toàn thế giới. Tuy nhiên, thực trạng săn bắt trái phép loài động vật này vẫn diễn ra vì giá trị của chúng trên thị trường rất cao. Theo ước tính của tạp chí Frontiers in Ecology & the Environment, mỗi năm có khoảng 10.000 con tê tê vàng bị săn bắt và tiêu thụ. Tình trạng tê tê bị săn bắt trộm với số lượng lớn đã khiến cho số lượng của loài này giảm đi nhanh chóng trong vài thập kỷ qua.

    Tê tê vàng hay được biết đến tên gọi tê tê Trung Quốc
    Tê tê vàng hay được biết đến tên gọi tê tê Trung Quốc
    Tê tê vàng
    Tê tê vàng
  10. Kền kền Bengal nằm trong danh sách những loài chim có tốc độ bay nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, trong suốt những năm vừa qua thì số lượng loài chim này suy giảm một cách thảm khốc. Từ những năm 1980 thì có đến 99,9% số lượng kền kền Bengal đã bị biến mất, dựa trên số liệu thống kê của Mother Nature Network. Vì vậy, việc chung tay bảo vệ loài động vật này đang là việc làm vô cùng cấp thiết hiện nay. Kền kền Bengal, tên khoa học Gyps bengalensis, là một loài chim trong họ Accipitridae. Đây là loài bản địa Nam và Đông Nam Á. Loài này đã được liệt kê là cực kỳ nguy cấp trong Danh sách đỏ của IUCN từ năm 2000, khi số lượng bị suy giảm nghiêm trọng. Kền kền Bengal chết do suy thận do ngộ độc diclofenac.


    Trong thập niên 1980, số lượng loài này trên thế giới ước tính khoảng vài triệu cá thể, và nó được cho là "loài chim săn mồi lớn có nhiều nhất trên thế giới". Tính đến năm 2016, dân số toàn cầu được ước tính dưới 10.000 cá thể trưởng thành. Kền kền Bengal thường gặp trong các sinh cảnh khác nhau, vùng núi và đồng bằng, ít khi gặp trên các vùng núi cao. Chúng thường đậu trên các cây gỗ lớn, ở những chỗ tương đối trống trải. Ăn xác chết. Tại Ấn Độ gặp chúng ăn xác chết người và gia súc. Chúng thường tụ tập thành đàn nhỏ. Làm tổ theo tập đoàn nhưng không lớn, trên cây cao, thường gặp chúng làm tổ ở những nơi gần làng bản. Bị đe doạ trong phạm vi khu vực và thế giới. Trước đây ở Việt Nam đã gặp ở một số nơi thuộc Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ, trong các năm 1997 và 1998 đã quan sát được ở Đắk Lắk (38, 70). Kền kền Bengal phổ biến trong vùng phân bố thế giới, nhưng vào đầu thế kỉ 20 chúng đã bị suy giảm ở phần lớn các nước Châu Á.

    Kền kền Bengal là một trong những loài chim bay nhanh nhất thế giới
    Kền kền Bengal là một trong những loài chim bay nhanh nhất thế giới
    Kền kền Bengal
    Kền kền Bengal
  11. Cá heo Maui là loài cá heo hiếm nhất và nhỏ nhất trong số các loài cá heo. Chúng có tên khoa học là Cephalorhynchus hectori maui và có môi trường sống chủ yếu ở vùng biển phía tây New Zealand. Cá heo Maui có tuổi thọ trung bình khoảng 20 năm, đến năm 7 tuổi, chúng sẽ bắt đầu sinh sản. Con trưởng thành có thể đạt tới 1,7m. Theo các nghiên cứu mới được công bố, trong vòng 7 năm qua, số lượng cá heo Maui đã giảm từ 111 cá thể xuống còn 55 cá thể. Trong khi đó, số lượng cá thể của loài cá heo này vào năm 1970 là hơn 1.000 con. Cũng giống như cá heo California, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm số lượng của cá heo Maui là do hoạt động đánh bắt cá của con người.


    Các nhà khoa học lại một lần nữa lên tiếng về việc cá heo Maui có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nguyên nhân chủ yếu làm hại cá heo Maui dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng của cá heo Maui còn do những hoạt động nông ngư nghiệp của con người, cụ thể là chính những tấm lưới đăng của ngư dân. Các chuyên gia cho rằng phải thành lập một khu bảo tồn và phải cấm lưới đăng trên khu vực rộng lớn. Một dự án đã được thực hiện vào năm 2008 để bảo vệ loài cá heo Maui bằng một hệ thống mạng lưới đặt dưới nước. Nhưng tình trạng cá heo Maui chết trong lưới của người dân vẫn xảy ra.

    Cá heo Maui
    Cá heo Maui
    Cá heo Maui
    Cá heo Maui
  12. Cá heo California là một loài động vật siêu hiếm được các nhà khoa học phát hiện lần đầu tiên vào năm 1958. Sự suy giảm số lượng loài của chúng do nhiều nguyên nhân gây nên như bị mắc vào các thiết bị đánh cá của con người tại vịnh California. Bên cạnh đó, sự phá hủy của môi trường sống, biến đổi khí hậu hay hiện tượng nóng lên toàn đầu đều là những nhân tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại của loài động vật hoang dã này.


    Cá heo California có tên khoa học là Phocoena sinus, thuộc họ cá heo chuột. Môi trường sống của loài cá heo này rất hạn chế, chúng chỉ được tìm thấy tại những vùng nước nông phía bắc vịnh California. Hiếm khi thấy chúng xuất hiện ở những vùng nước sâu hơn 30m và cách bờ 25km. Chúng thích sống ở những vùng nước đục, nơi có nhiều con mồi có thành phần dinh dưỡng cao. Việc các ngư dân thường xuyên bắt cá bằng lưới kéo và lưới rê đã khiến cho rất nhiều cá heo California bị vướng vào lưới. Những vùng biển đánh bắt của ngư dân thường trùng với vùng săn mồi của cá heo. Theo Arkive, vào năm 2017, số cá thể cá heo California chỉ còn lại 150 con. Số lượng loài cá heo có thể giảm xuống nữa do vẫn còn khoảng 1.000 tàu lưới rê đang hoạt động trong môi trường sống của chúng.

    Cá heo California là một loài động vật siêu hiếm
    Cá heo California là một loài động vật siêu hiếm
    Cá heo California
    Cá heo California




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy