Top 12 Loài động vật có thính giác tốt nhất thế giới

Hoàng Thu Thuỷ 1727 0 Báo lỗi

Chúng ta sử dụng thính giác của mình để giao tiếp với những người xung quanh và tương tác với môi trường của chúng ta. Phạm vi nghe trung bình của một người là ... xem thêm...

  1. Loài bướm đêm được mệnh danh là loài có thính giác tốt nhất trong vương quốc động vật. Chúng có thể nghe được tần số lên đến 300 kHz, cao gấp 15 lần so với những âm có âm vực cao nhất mà chúng ta có thể nghe thấy. Người ta tin rằng loài bướm đêm này đã phát triển thính giác nhạy bén như vậy để thoát khỏi kẻ săn mồi chính của nó: dơi. Dơi sử dụng khả năng định vị bằng tiếng vang tần số cao để săn mồi, nhưng loài sâu bướm sáp lớn hơn có thể nghe thấy tiếng gọi của dơi, giúp chúng có cơ hội trốn tránh kẻ thù của mình.


    Bướm đêm không dễ phân biệt với bướm thường. Đôi khi cái tên "Heterocera" được sử dụng cho loài bướm này trong khi thuật ngữ "Rhopalocera" được sử dụng cho bướm để phân biệt, tuy nhiên, nó không có giá trị phân loài. Các nhà khoa học đã có nhiều nỗ lực để chia nhỏ phân Bộ Lepidoptera thành các nhóm như Microlepidoptera và Macrolepidoptera, Frenatae và Jugatae, hoặc Monotrysia và Ditrysia. Thất bại của các tên này tồn tại trong phân loại hiện đại là bởi vì không cái tên nào đại diện cho một cặp của các nhóm đơn ngành.


    Thực tế cho thấy có một nhóm nhỏ những con bướm được sinh ra từ "bướm đêm" (được coi như là một phần của Ditrysia của Neolepidoptera). Và như vậy, không có cách nào để nhóm tất cả các loài còn lại trong một nhóm đơn ngành, nó sẽ luôn luôn loại trừ là 1 hậu duệ dòng dõi. Hơn nữa, ngay cả ấu trùng của chúng cũng giống ấu trùng của bọ cánh cứng (coleoptera).

    Bướm đêm
    Bướm đêm
    Bướm đêm
    Bướm đêm

  2. Dơi được biết đến với thính giác đặc biệt của chúng, mặc dù ý kiến cho rằng chúng có thị lực kém đã bị các nhà khoa học phủ nhận rộng rãi. Một số loài dơi sử dụng khả năng định vị bằng tiếng vang, nghĩa là chúng phát ra tiếng kêu khi bay và sử dụng tiếng vọng để định vị và điều hướng. Những rung động âm thanh mà chúng phát ra thông qua tiếng rít sẽ dội lại từ bất kỳ bề mặt nào gần đó trở lại con dơi, cho phép chúng biết vật thể đang ở đâu.


    Dơi là một loài động vật có vẻ ngoài khi bay rất giống nhau nhưng để nhận ra sự khác biệt giữa chúng là về kích thước. Kích thước của loài dơi phụ thuộc vào biến thể về ngoại hình của từng con. Loài dơi nhỏ nhất là dơi mũi heo Kitti, mức độ chiều dài trung bình từ 29 -34mm và chúng được xếp vào những loài động vật có vú nhỏ nhất hành tinh. Bên cạnh đó, loài dơi lớn nhất là họ cáo bay với độ bao phủ của bộ cánh lên đến 1,7 mét và trọng lượng 1kg tương đương 2,2 pound.


    Các loài dơi rất khác nhau về màu sắc và kết cấu lông, màu da của chúng không đồng nhất về một loại màu sắc. Với hơn 1.200 loài dơi khác nhau có thể thấy sự đa dạng về sắc là rất lớn. Nhìn chung màu da của nó chủ đạo vẫn là những gam màu tối như xám đen, hoặc nâu có những con có màu vàng cam và kết hợp với các đốm vàng và đỏ.


    Hình dáng khuôn mặt, chủ yếu làm tai và mõm có kết cấu khác nhau giữa các họ gia đình và chủ yếu là giữa các chi. Trong một số gia đình, một đặc điểm có kết cấu chính có nhiều thịt được gọi là lá mũi bao quanh lỗ mũi. Hình dáng cánh của loài dơi thực chất là cánh tay của chúng, trong tiếng Hy Lạp cổ đại loài dơi có nghĩa là cánh tay bởi vì dơi có bốn ngón tay dài và một ngón tay cái, mỗi ngón được nối với nhau bằng một lớp màng như chúng ta thường thấy ở chân của vịt và ngỗng.


    Đặc thù của loài dơi là kiếm ăn vào ban đêm và ngủ vào ban ngày, khi ngủ chúng thường treo ngược thân mình lơ lững rồi bám vào vách thường hay vách núi và gấp gọn cánh bao quanh người như một bộ kén bao bọc thân thể chúng. Loài dơi rất ưa bóng tối vì vậy chỗ ngủ hay trú ẩn của chúng thường là những vách núi hay các hang động thậm chí là mái nhà của chúng ta.

    Loài Dơi
    Loài Dơi
    Loài Dơi
    Loài Dơi
  3. Là loài hoạt động về đêm, dựa vào cả thị giác nhạy bén và thính giác của chúng. Hầu hết các loài cú đều có tai đặt không đối xứng, một cái sẽ hơi về phía trước và một cái được đặt cao hơn cái kia. Sự khác biệt về vị trí của tai cho phép chúng xác định chính xác nơi phát ra âm thanh và giúp chúng bắt được con mồi nhỏ của mình trong bóng tối.


    Hầu hết các con cú đều nghe tốt hơn các loài chim săn ban ngày khác, có thể vì chúng săn mồi vào ban đêm. Cú Barn sẽ sử dụng tần số âm thanh trên 8,5 kHz để định vị chuyển động của con mồi trong cỏ, thường tạm dừng giữa chuyến bay để định hướng lại bằng âm thanh chuyển động trước khi sà xuống để tấn công.


    Một số loài cú, như cú xám lớn, có thể săn mồi một mình bằng thính giác, thường tìm thấy những động vật có vú nhỏ đang chạy tán loạn dưới tuyết. Cú barn có số lượng tế bào thần kinh trong tủy (phần não liên quan đến thính giác) nhiều hơn gấp ba lần so với quạ.


    Ngay cả trong đêm tối mịt, loài cú mèo cũng có thể dễ dàng định vị chính xác các vị trí trên con mồi, nhờ hệ thống xử lý tín hiệu âm thanh rất tinh vi trong bộ não của mình. Theo nghiên cứu mới đây do TS Masakazu Konishi thuộc Viện Công nghệ California, Mỹ cùng các đồng sự thực hiện, ví dụ như với tiếng động sột soạt của một con chuột được xử lý bằng một bản đồ âm thanh hai chiều, vẫn cho phép con cú mèo biết ngay mồi đang ở đâu. Khám phá này có ý nghĩa quan trọng đối với nghiên cứu quá trình não xử lý thông tin.


    Ngoài ra, để tìm hiểu xem vì sao loài cú mèo có thể bắt được mồi trong bóng đêm, nhóm nghiên cứu này đã xem xét phản ứng của 14 con cú mèo với các cặp âm thanh. Những kích thích của tế bào được ghi lại trong não cho thấy hệ thống thính giác của loài cú mèo đã tự tạo ra một bản đồ âm thanh hai chiều, dựa trên các âm thanh thu được. Sau đó, hệ thống này lại nhân bội các âm thanh để định vị chính xác hơn nữa thời gian và địa điểm mà âm thanh ấy đang phát ra.

    Loài Cú
    Loài Cú
    Loài Cú
    Loài Cú
  4. Voi sử dụng thính giác và quan trọng nhất là tai của chúng vì nhiều lý do. Ngoài khả năng thính giác tuyệt vời, với dải tần trung bình 16 Hz – 12 kHz, voi sẽ sử dụng đôi tai của mình để giúp chúng giữ mát. Trong điều kiện khí hậu nóng nơi chúng sinh sống, diện tích bề mặt lớn và độ mỏng của tai giúp điều hòa thân nhiệt, giữ cho chúng mát hơn lâu hơn. Với đôi tai khổng lồ, voi có thể nghe được âm thanh của các đám mây quần tụ với nhau trước khi có mưa. Voi có thể nghe được cả sóng hạ âm, tức là tần số thấp mà con người không nghe được. Chúng còn nghe được bằng chân nhờ các đầu mút thần kinh cảm nhận những rung động của mặt đất. Một số loài vật có thụ thể trên các bộ phận cơ thể truyền tải được các rung động và sóng âm đến hệ thần kinh.


    Tai voi có phần cuống dày nhưng rìa mỏng. Bên dưới vành tai, hay tai ngoài, chứa nhiều mao mạch. Máu ấm chảy vào các mao mạch, giúp giải phóng lượng nhiệt dư thừa của cơ thể ra môi trường. Quá trình này diễn ra khi vành tai đứng yên và voi vỗ tai để tăng cường hiệu ứng trên. Diện tích tai càng lớn thì nhiệt càng có thể được đào thải hiệu quả hơn. Trong số tất cả các loài voi, voi rừng châu Phi sống ở vùng có khí hậu nóng nhất và có vành tai lớn nhất.


    Voi là động vật sống trên cạn lớn nhất. Voi đồng cỏ châu Phi là loài lớn nhất trong số các loài voi, cá thể đực có thể cao từ 304–336 cm tới vai, với khối lượng cơ thể từ 5,2–6,9 tấn, cá thể cái có thể cao từ 247–273 cm tới vai, với khối lượng cơ thể từ 2,6–3,5 tấn. Voi châu Á đực có chiều cao ngang vai trong khoảng 261–289 cm và nặng khoảng 3,5–4,6 tấn, voi châu Á cái có chiều cao ngang vai trong khoảng 228–252 cm và nặng khoảng 2,3–3,1 tấn. Voi rừng châu Phi là loài nhỏ nhất, cá thể đực của chúng chỉ cao khoảng 209–231 cm ngang vai và nặng 1,7–2,3 tấn. Voi rừng châu Phi đực thường cao hơn 23% so với con cái, còn chiều cao voi đực châu Á chỉ nhỉnh hơn con cái khoảng 15%.


    Bộ xương voi được cấu thành từ 326–351 chiếc xương riêng lẻ. Voi châu Phi có 21 cặp xương sườn, còn voi châu Á chỉ có 19 hoặc 20 cặp. Hộp sọ của voi có đủ sức đàn hồi để chịu được ứng suất của cặp ngà và hứng chịu các va chạm trực diện. Lưng của hộp sọ rất phẳng và trải rộng ra, tạo ra mái vòm bảo vệ não theo mọi hướng. Hộp sọ voi có các xoang tổ ong chứa khí, giảm trọng lượng hộp sọ nhưng vẫn duy trì được sức mạnh tổng thể. Hộp sọ voi rất lớn, cung cấp diện tích để các cơ bắp bám vào và hỗ trợ đầu. Hàm dưới của voi rắn rỏi và rất nặng. Do kích thước của đầu, cổ của voi tương đối ngắn để hỗ trợ trọng lượng tốt hơn.


    Voi không có tuyến tiết lệ, phải dựa vào tuyến Harder để giữ mắt ẩm. Một lớp màng thuẫn rất bền bảo vệ nhãn cầu voi. Nhãn trường của voi không được tốt do vị trí của đôi mắt. Voi là loài lưỡng sắc chúng có thể nhìn rõ trong ánh sáng mờ nhưng không nhìn rõ trong ánh sáng chói.

    Loài Voi
    Loài Voi
    Loài Voi
    Loài Voi
  5. Khi bạn trở về nhà và con chó của bạn rất vui khi gặp bạn, bạn có thể nghĩ rằng đó là vì chúng đã nghe thấy bạn đi qua cửa trước. Nhưng thính giác của chó rất nhạy và có thể nghe được những tần số cao hơn những gì con người có thể nghe được (và thường phản ứng tốt hơn với những tần số này so với những âm thấp hơn). Thính giác của chó rất nhạy nên chúng thường có thể nghe thấy bạn đang ở nhà ngay cả trước khi bạn mở cửa.


    Không nghi ngờ gì nữa, một trong những giác quan mà loài chó đã phát triển tốt hơn là thính giác, qua đó chúng có thể cảm nhận âm thanh ở những tần số mà con người không thể nhận thấy được. Vì vậy, bạn có một ý tưởng hay như con người, chúng ta có thể nghe thấy âm thanh được tạo ra từ khoảng cách 6 mét khá rõ ràng, nhưng trong trường hợp của người bạn chó của chúng tôi, điều này tăng lên đáng kể, khiến chúng có thể nghe hoàn hảo ở độ cao 25 mét hoặc có thể nhiều hơn một chút.


    Nhưng tai của chó hoạt động như thế nào, có thể cho phép thính giác này nhạy bén? Vâng, hãy bắt đầu bằng cách nói rằng cơ quan này bao gồm ba phần: tai ngoài, tai giữa và tai trong. Khi một làn sóng âm thanh bắt nguồn gây ấn tượng cho con chó, nó sẽ được phát hiện ngay lập tức bởi phần tiếp xúc nhiều nhất của tai bạn, là tai, từ đó âm thanh này được truyền đi. Loa tai là một bộ phận rất chức năng cho phép di chuyển tốt, nhờ có 17 cơ của nó.


    Từ đó sóng âm đi qua ống tai đến màng nhĩ, có khớp hình chữ L được thiết kế để bảo vệ. Ở đó, chúng tạo ra sự rung động của màng nhĩ và chúng làm cho các xương nhỏ mở rộng chúng ra nhiều hơn để khi vào tai trong, con chó có thể xác định được loại âm thanh. Điều đáng nhớ là tai giữa có chức năng giữ thăng bằng cho cơ thể của con chó của chúng taĐây là lý do tại sao khi có sự bất thường tại thời điểm này, nó có thể biểu hiện các chuyển động thất thường hoặc giảm.

    Loài Chó
    Loài Chó
    Loài Chó
    Loài Chó
  6. Không chỉ thính giác của mèo rất ấn tượng, với dải tần trung bình từ 45Hz – 64.000Hz, mà đôi tai của chúng cũng rất đáng nể về mặt cơ học. Tai người bao gồm ba cơ và ba xương nhỏ nhất trong cơ thể, Tai của mèo được điều khiển bởi khoảng ba chục cơ trên mỗi tai cho phép chúng xoay tai 180 độ.


    Con mèo nó là một loài động vật rất nhạy cảm có khả năng cảm nhận những âm thanh lên đến 50.000Hz trong khi con người chỉ có thể cảm nhận được tối đa 20.000Hz. Sự khác biệt này lớn đến mức mặc dù anh ta có thể nghe thấy âm thanh của một con chuột từ cách xa 7 mét, nhưng thính giác của chúng ta thường phải kết hợp với thị giác của chúng ta để hiểu những gì một người đang nói khi nói chuyện trên một con phố có nhiều xe cộ.


    Ngoài ra, tai của mèo có thể được định hướng về trọng tâm của âm thanh nhờ vào 27 cơ được tìm thấy trong đó, cho phép xoay từng chiếc một.


    Thính giác của mèo đặc biệt vượt trội so với thính giác của con người. Trong khi con người và mèo có phạm vi thính giác tương tự nhau ở phần cuối của thang âm, thì mèo có thể nghe được những âm thanh có âm vực cao hơn nhiều, như chúng ta đã thảo luận ở điểm trước.


    Điều này có nghĩa là mèo có thể nghe thấy những âm thanh mà con người không thể nghe thấy ở cả hai đầu của quang phổ, nhưng đặc biệt là ở đầu cao hơn.. Mèo không chỉ cao hơn phạm vi của con người mà còn vượt xa phạm vi của chó, ít nhất là một quãng tám.

    Loài Mèo
    Loài Mèo
    Loài Mèo
    Loài Mèo
  7. Một đàn ngựa sẽ luôn có ít nhất một con trông chừng, để cảnh báo những con khác về những nguy hiểm tiềm tàng có thể xảy ra xung quanh chúng. Thính giác của ngựa rất cần thiết để bảo vệ đàn. Các chức năng chính của thính giác của ngựa là phát hiện âm thanh, xác định nơi phát ra, xác định âm thanh là gì và biết đã đến lúc cảnh báo bầy đàn hay chưa. Ngựa cũng sử dụng tai để truyền đạt tâm trạng của chúng. Tai ngựa có tới 16 cơ mỗi bên, điều này cho phép chúng có thể lắc tai và xoay chúng một góc 180 độ.


    Tùy thuộc vào giống, sự quản lý và môi trường, thức ăn, nước uống v.v ngày nay ngựa có tuổi thọ khoảng 25 đến 30 năm. Con ngựa sống thọ nhất có thể kiểm chứng là "Old Billy", một con ngựa sống trong thế kỷ 19 với tuổi thọ là 62 năm. Hiện nay, Sugar Puff, con ngựa được liệt kê trong Sách Kỷ lục Guinness như là con ngựa pony già nhất còn sống trên thế giới, đã chết ngày 25 tháng 5 năm 2007 ở độ tuổi 56.


    Ngựa cái mang thai kéo dài khoảng 335-340 ngày. Ngựa thường sinh một. Ngựa con có khả năng đứng và chạy một thời gian ngắn sau sinh. Ngựa bốn tuổi được coi là ngựa trưởng thành, mặc dù chúng tiếp tục phát triển bình thường cho đến khi sáu tuổi, thời gian hoàn thành sự phát triển của ngựa cũng phụ thuộc vào kích cỡ của ngựa, giống, giới tính và chất lượng chăm sóc.


    Khác nhiều so với trên phim, thực tế loài vật này rất thích ăn đồ ăn có tinh chất đường, nếu thức ăn có vị đắng hoặc chua chúng sẽ không động tới. Nếu dự định nuôi một chú ngựa thì bạn nên biết món khoái khẩu của chúng là yến mạch, táo và cà rốt.

    Loài Ngựa
    Loài Ngựa
    Loài Ngựa
    Loài Ngựa
  8. Cá heo có thính giác cũng như thị lực đặc biệt và cũng sử dụng khả năng định vị bằng tiếng vang để “nghe” nơi chúng sắp đi (tương tự như dơi). Trong trường hợp này, một con cá heo sẽ phát ra một âm thanh, một tiếng rít, sẽ bật ra khỏi bề mặt và quay trở lại hàm dưới của cá heo. Sự dội lại của các rung động âm thanh cung cấp một bản đồ âm thanh về những gì có thể ở phía trước. Độ chi tiết của bản đồ âm thanh rất ấn tượng và cho phép cá heo không chỉ săn mồi hiệu quả mà còn tránh mọi nguy hiểm.


    Cá heo được biết đến nhờ vào thính giác đặc biệt của chúng. Nhưng bạn có biết rằng chúng không có khứu giác? Cá heo có các vùng khứu giác, nhưng lại không có các dây thần kinh khứu giác. Trong trường hợp bạn đang tự hỏi rằng: “Nếu cá heo không thể ngửi, liệu chúng có vị giác không?” Qủa thực, chúng có vị giác nhưng chỉ có thể cảm nhận được vị muối mà thôi.


    Hầu hết cá heo đều có nhãn lực tinh tường cả trong môi và ngoài môi trường nước và có thể cảm nhận các tần số cao gấp 10 lần tần số người có thể nghe được. Mặc dù cá heo có lỗ tai nhỏ ở hai bên đầu, người ta cho rằng trong môi trường nước, cá nghe bằng hàm dưới và dẫn âm thanh tới tai giữa qua những khe hở chứa mở trong xương hàm. Nghe cũng được dùng để phát sóng rada sinh học, một khả năng tất cả các loài cá heo đều có. Người ta cho rằng răng cá heo được dùng như cơ quan thụ cảm, chúng nhận các âm thanh phát tới và chỉ chính xác vị trí của đối tượng.


    Xúc giác của cá heo cũng rất phát triển, với đầu dây thần kinh phân bổ dày đặc trên da, nhất là ở mũi, vây ngực và vùng sinh dục. Tuy nhiên cá heo không có các tế bào thần kinh thụ cảm mùi và vì vậy chúng được tin là không có khứu giác. Cá heo cũng có vị giác và thể hiện thích một số thức ăn cá nhất định. Hầu hết thời gian của cá heo là dưới mặt nước, cảm nhận vị của nước có thể giúp cá heo ngửi theo cách là vị nước có thể cho cá biết sự hiện diện của các vật thể ngoài miệng mình.


    Dù cá heo không có lông, chúng vẫn có nang lông giúp thực hiện một vài chức năng xúc giác. Người ta tin rằng, các sợi lông nhỏ trên mỏ của loài cá heo sông Boto hoạt động như một hệ thống xúc giác để bù đắp cho thị giác kém của loài này.

    Loài Cá heo
    Loài Cá heo
    Loài Cá heo
    Loài Cá heo
  9. Chuột đặc biệt giỏi trong việc xác định chính xác vị trí phát ra âm thanh do tai của chúng quá gần nhau. Phạm vi của một con chuột thuộc loại siêu âm, là những âm thanh quá cao mà con người có thể nghe thấy. Chuột có thể nghe được với dải tần số rộng. Chúng có thể cảm nhận âm thanh ở tần số từ 80 Hz đến 100 kHz (tức là trong dải siêu âm), nhưng nhạy cảm nhất trong phạm vi 15–20 kHz và khoảng 50 kHz. Chúng giao tiếp bằng tiếng kêu chít chít trong dải âm thanh mà con người cảm nhận được (đối với cảnh báo từ xa) và trong dải siêu âm (khi giao tiếp gần).


    Vì là động vật chủ yếu sống về đêm, chuột nhà có ít hoặc không có khả năng nhận biết màu sắc. Bộ máy thị giác của loài chuột này về cơ bản là tương tự như con người. Vùng “bụng” của võng mạc chuột có mật độ tế bào hình nón nhạy cảm tia cực tím (UV) cao hơn nhiều so với các khu vực khác của võng mạc, mặc dù ý nghĩa sinh học của cấu trúc này chưa được biết rõ.


    Chuột nhà cũng sử dụng các pheromone làm tín hiệu giao tiếp trong xã hội. Nước mắt và nước tiểu của chuột đực cũng có chứa pheromone.Chuột phát hiện pheromone chủ yếu nhờ xương lá mía nằm ở phía dưới mũi. Nước tiểu của chuột nhà, đặc biệt là chuột đực, có mùi mạnh và đặc trưng. Trong nước tiểu chuột, người ta phát hiện được ít nhất mười hợp chất khác nhau như alkan, alcohol…


    Mùi của những con đực trưởng thành hoặc từ con cái mang thai hoặc cho con bú có thể làm tăng tốc độ hoặc làm chậm sự trưởng thành sinh dục ở con cái vị thành niên và đồng bộ hóa chu kỳ sinh sản ở con cái trưởng thành (được gọi là hiệu ứng Whitten). Mùi của những con chuột đực lạ có thể chấm dứt thai kỳ, đây là hiệu ứng Bruce.

    Loài Chuột
    Loài Chuột
    Loài Chuột
    Loài Chuột
  10. Chim bồ câu có thể nghe thấy sóng hạ âm, âm thanh thấp hơn nhiều so với âm thanh mà con người có thể nghe thấy. Với việc chim bồ câu trung bình có thể nghe âm thanh thấp tới 0,5 Hz, chúng có thể phát hiện ra các cơn bão ở xa, động đất và thậm chí cả núi lửa. Với khả năng thính giác đặc biệt và kỹ năng điều hướng của mình, chúng thường được coi là những nhà điều hướng giỏi nhất trong vương quốc động vật.


    Thân nhiệt chim bồ câu ổn định trong điều kiện nhiệt độ môi trường thay đổi, chim bồ câu là động vật hằng nhiệt. Thân chim hình thoi làm giảm sức cản không khí khi bay. Da khô phủ lông vũ. Lông vũ bao phủ toàn thân là lông ống, có phiến lông rộng tạo thành cánh, đuôi chim (vai trò bánh lái). Lông vũ mọc áp sát vào thân là lông tơ. Lông tơ chỉ có chùm sợi lông mảnh tạo thành lớp xốp giữ nhiệt và làm thân chim nhẹ.


    Cánh chim khi xòe ra tạo thành một diện tích rộng quạt gió, khi cụp lại thì gọn áp vào thân. Chi sau có bàn chân dài ba ngón trước, một ngón sau, đều có vuốt, giúp chim bám chặt vào cành cây khi chim đậu hoặc duỗi thẳng, xòe rộng ngón khi chim hạ cánh. Mỏ sừng bao bọc hàm không có răng, làm đầu chim nhẹ. Cổ dài, đầu chim linh hoạt, phát huy được tác dụng của giác quan (mắt, tai), thuận lợi khi bắt mồi, rỉa lông. Tuyến phao câu tiết chất nhờn khi chim rỉa lông làm lông mịn, không thấm nước.


    Chim bồ câu xây những cái tổ tương đối mỏng manh, thường sử dụng gậy và các mảnh vụn khác, có thể được đặt trên những cành cây, trên các gờ hoặc trên mặt đất, tùy theo loài. Chúng đẻ một hoặc (thường) hai quả trứng trắng cùng một lúc, và cả bố và mẹ đều chăm sóc con non. Chúng rời tổ sau 25 ngày đến 32 ngày. Chim bồ câu không lông thường có thể bay được khi chúng được 5 tuần tuổi. Không giống như đa số các loài chim, cả hai giới của chim bồ câu đều sản xuất "sữa cây" để nuôi con non, được tiết ra bằng cách làm bong các tế bào chứa đầy chất lỏng từ lớp lót của chúng.

    Chim bồ câu
    Chim bồ câu
    Chim bồ câu
    Chim bồ câu
  11. Những con thỏ hướng tai thẳng về phía có âm thanh phát ra. Cử động tai giúp thỏ chạy trốn khỏi các loài thú ăn thịt. Ngoài ra, cử động tai của thỏ còn cho chúng ta biết nhiều điều về hành vi của chúng. Tai thỏ dựng đứng tức là chúng đang chăm chú lắng nghe.


    Thỏ là một loài động vật có vú nhỏ được xếp vào họ Leporidae thuộc bộ Lagomorpha, sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Thỏ được phân loại thành bảy loại,[cần dẫn nguồn] điển hình như thỏ rừng châu Âu, thỏ đuôi bông (giống Sylvilagus, 13 loài), thỏ Amami. Còn nhiều loài thỏ khác trên thế giới, thỏ đuôi bông, thỏ cộc và thỏ rừng được xếp vào bộ Lagomorpha. Tuổi thọ của thỏ từ 4 tới 10 năm, thời kỳ mang thai khoảng 30 ngày.


    Loài thỏ được con người biết đến đầu tiên vào khoảng 1000 năm trước công nguyên tại Châu Âu. Thỏ rừng châu Âu là loài thỏ duy nhất được thuần hóa. Thỏ được xem là thú nuôi, làm thực phẩm, lấy lông và cũng là những kẻ phá hoại ruộng vườn. Thỏ nhà được thuần hóa từ thỏ rừng sống hoang dã. Ở phương Tây, thỏ nuôi ở nhà gọi là bunny hoặc bunny rabbit chỉ thỏ con đã thuần hóa.

    Loài Thỏ
    Loài Thỏ
    Loài Thỏ
    Loài Thỏ
  12. Khi các loài bọ cánh cứng, dế và bướm đêm nghe thấy sóng siêu âm của các loài ăn thịt chuyên săn đuổi chúng, chúng sẽ chạy trốn hoặc bay hình zigzag hoặc hình vòng tròn để thoát khỏi cuộc đi săn. Một số loài dế và bọ cánh cứng phát ra âm thanh lách cách để xua đuổi kẻ săn mồi.


    Ngoài ra, nhiều loài côn trùng khá nổi tiếng vì những âm thanh mà chúng tạo ra. Ví dụ như : Ve sầu, dế, châu chấu và châu chấu Mỹ đều hát những bài hát của riêng chúng. Nhiều loài bọ cánh cứng cũng tạo ra âm thanh, mặc dù không được duyên dáng như những người anh họ trong Bộ Cánh thẳng của chúng. Ví dụ như việc mọt gỗ tạo ra những tiếng “kẽo kẹt” trong nhiều giờ…


    Ve sầu hay còn gọi là kim thiền là một siêu họ côn trùng có đầu to, hai cánh có nhiều vân. Có khoảng 2.500 loài ve sầu trên thế giới, trong vùng ôn đới lẫn nhiệt đới. Ve sầu là các loài sâu bọ được nhiều người biết nhất vì kích thước to lớn hơn, hình dáng đặc biệt có đầu lớn và khả năng tạo âm thanh rỉ rả, inh ỏi, suốt mùa hè. Ở khu vực dãy núi Appalachian, dân Mỹ gọi ve sầu là ruồi khô vì xác ve sau khi lột còn nguyên hình và khô.


    Dế xuất hiện tại nhiều môi trường, từ đồng cỏ, bụi rậm, và rừng tới đầm lầy, bãi biển và hang động. Các loài dế mèn đa số sống về đêm, và con trống có tiếng gáy to dai dẳng để thu hút con mái, dù vài loài không gáy được. Điều thú vị là tiếng kêu vang này không phải là được phát ra từ trong miệng của con dế, mà là được phát sinh thông qua sự ma sát giữa đôi cánh. Dế trưởng thành thường thấy đều có hai đôi cánh. Cánh trước tương đối cứng, có tác dụng phát tiếng kêu và bảo vệ cơ thể, cánh sau mềm có tác dụng bay lượn. Khi dế đực kêu, răng phát âm của cánh phải trước và gân ngang của cánh trái trước không ngừng ma sát phát ra âm thanh.

    Côn trùng có cánh
    Côn trùng có cánh
    Côn trùng có cánh
    Côn trùng có cánh



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy