Bài văn phân tích tác phẩm "Tiếng hát con tàu" số 7

Buổi đầu tiên Chế Lan Viên đến với thơ ca bằng một nỗi buồn ghê rợn và kinh dị. Cái hơi hám ấy đi vào tập Điêu Tàn ám ảnh với những bóng ma dật dờ trở về từ cõi âm đầy ám khí.


Cái ám khi ấy hắt lên tâm hồn của một chàng trai trẻ tuổi mà đã sớm bi quan trốn tránh sự đời. Thế rồi sau cách mạng, cuộc kháng chiến thần thánh đã lùa vào thơ anh một hơi thở mới đầy đam mê, rạo rực hướng cho anh đi tới những chân trời tràn khát vọng. Tiếng hát con tàu đã được ra đời trong hoàn cảnh như thế.


Bài thơ là một khúc ca lên đường, là khát vọng muốn thoát ra khỏi cáĩ tôi cá nhân, phá toang cái lồng chật hẹp của cái tôi cá nhân để đến với những miền đất xa xôi, đến với cuộc đời rộng lớn, cũng là đên với nhân dân đất nước, với những mơ ước ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật. Bài thơ được mở đầu bằng một âm hưởng rạo rực, xốn xang, thúc giục, lôi cuốn.


Tây Bắc ư có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.


Câu hỏi tu từ được cất lên như xoáy sâu vào lòng người, tác giả đã tự hỏi, tự lí giải, tự phân tích rồi tự phủ định. Tây Bắc – cái mảnh đất từng gắn bó máu thịt với nhà thơ trong hơn suốt mười năm đấu tranh gian khổ, mảnh đất ấy giờ đây đang cần những bàn tay vun xới. Vậy thì cớ sao tác giả lại không đi cho được? Và anh không chỉ trở về với Tây Bắc “có riêng gì Tây Bắc”.


Tây Bắc là khát vọng mà anh hướng tới, xa hơn không chỉ dừng lại ở vùng Tây Bắc nhỏ bé mà đất nước còn có bao mảnh đất cần đến bàn tay của con người thì tám hồn tác giả còn muốn hướng về, bước chân tác giả còn muốn đi tới những miền đất sổi đá mà nhiều hứa hẹn. Đó là những miền đất mà Hoàng Trung Thông từng đặt niềm tin mãnh liệt.


Đường xa ta tói đây

Trên đồi cây cát nắng

Giữa hai dòng suối vắng

Đoàn ta vui cấy cày.

(Bài ca vỡ đất)


Với điệp từ khi – khi trong hai câu thơ “Khi lòng ta đã hóa những con tàu, Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát” đã có sự gặp gỡ trùng hợp thật đẹp đẽ giữa khát vọng của cá nhân và yêu cầu của đất nước. Đó là sự gặp gỡ, hòa quyện giữa cái chung và cái riêng. Khi lòng người thôi thúc một khát vọng công hiến thì cũng chính là khi mà Tổ quốc đang cần những bàn tay, những khối óc.


Tây Bắc không chỉ là nơi gợi khát vọng công hiến mà nó còn cuốn hút tâm hồn nhà thơ bởi những ý tưởng nghệ thuật, ở đây tác giả đã dùng biện pháp đồng nhất trong từng cặp đối tượng. “Lòng ta đã hóa những con tàu” và “tâm hồn ta là Tây Bắc” có nghĩa khi tâm hồn nhà thơ hướng tới cuộc sống thì chính cuộc sống lại gợi lên cho nhà thơ biết bao cảm xúc.


Tây Bắc là xứ sở đã ôm ấp, nâng niu bao kỷ niệm trong suốt mười năm kháng chiến nên khi đến với Tây Bắc thì cũng chính là tác giả trở về với lòng mình, trở về với ngọn nguồn của dân tộc. Khi nói “tâm hồn ta ià Tây Bắc” thì cũng là lúc tác giả xem mình đã thuộc về Tổ quốc, thuộc về nhân dân. Đó là sự khẳng định thống nhất tuyệt đối giữa cái tôi và cái ta.


Con tàu này lên Tây Bắc anh đì chăng

Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội

Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi

Ngoài cửa ô tàu đói những vành trăng.


Những câu thơ mang giọng điệu giục giã lên dường đã nói lên bao nỗi niềm tâm trạng của tác giả. Thực ra, hồi bấy giờ làm gì có tàu lên Tây Bắc, thế nhưng con tàu trong tâm tưởng của nhà thơ vẫn lên đường trong một không khí háo hức, sôi động.. Ớ đây, tác giả đã dùng biện pháp phân đôi chủ đề trữ tình để tự đối thoại.


Nhà thơ tự mời gọi mình “anh đi chăng”, nhưng thực ra câu hỏi ấy không chỉ dành riêng cho tác giả mà còn là câu hỏi cho muôn lớp thanh niên đang sống trên mảnh đất Hà Nội, và xa hơn là trên khắp đất nước Việt Nam. Điệu thơ chuyển từ mời gọi sang giục giã hối thúc.


Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi

Ngoài cửa ô tàu đói những vành trăng.


Cái tôi trữ tình cứ băn khoăn trăn trở giữa hai không gian Hà Nội và Tây Bắc, giữa hai lối sống hưởng thụ và cống hiến. Câu thơ tạo nên hai hình ảnh đối lập: “đất nước mênh mông / đời anh nhỏ hẹp”. Giờ đây, anh sẽ sống cho đất nước hay cho riêng cá nhân mình? Nhưng rồi nhà thơ đã khẳng định cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi anh lên Tây Bắc, còn nếu như anh chỉ khư khư giữ lấy bầu trời Hà Nội, ích kỉ sống cho cái tôi cá nhân riêng lẻ thì tâm hồn anh sẽ cằn cỗi đi, cuộc sống của anh chẳng còn gì là thi vị nữa.


Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép

Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.


Tổ quốc đang vẫy gọi thế mà nếu anh không ra đi làm sao anh có thể tìm thấy những cảm hứng nghệ thuật mới lạ, làm sao anh thấy cuộc đời còn nhiều nghĩa lí? Thực ra cuộc hành trình trở về của Chế Lan Viên không phải không có những suy nghĩ, những day dứt, nhưng đó là sự trở về với nhân dân, với đất nước, với kỷ niệm dấu yêu và cũng chính là sự trở về với lòng mình nên anh đã không ngần ngại dang tay đón lấy những “vầng trăng”. Đón lấy vầng trăng như một cuộc hành trình đi tìm chất thơ, đi tìm những cảm hứng mới cho nghệ thuật.


Trên Tây Bắc ôi mười năm Tây Bắc

Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng

Nơi rỏ máu tâm hồn ta thấm đất

Nay rạt rào đã thấm trái đầu xuân.


Khổ thơ chở đầy kỷ niệm của mười năm kháng chiến gian lao. Mảnh đất ấy từng ghi bao chiến công vang dội, cũng chính là nơi thấm máu của bao người anh hùng đã ngã xuống cho những mùa xuân ngàn sau đẹp mãi, cho cuộc sống đơm hoa kết trái.


Trong nỗi nhớ thiết tha về Tây Bắc thiêng liêng có cảm xúc tự hào, có cả phút giây trầm lắng khi nghĩ tới những người đã khuất, song tình cảm đọng lại vẫn là một niềm dạt dào phơi phới trước mùa xuân hoa lá xôn xao. Và khi được trở về với mảnh đất thiêng liêng anh hùng của Tây Bắc, tác giả đã không nén nổi lòng. mình nên bật thành tiếng reo trào dâng xúc động.


Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.


Bằng những nỗi niềm hiện tại, bôn câu thơ như một tiếng hát vọng về từ quá khứ. Về với nhân dân là về với những gì thân thuộc nhất, gần gũi nhất. Tác giả trở về sông giữa lòng nhân dân mang theo cả một biển trời thương nhớ, một biển trời đầy ắp kỷ niệm. Chính nhân dân đã đem lại cho nhà thơ sự sống. Tâm hồn anh đã được nuôi dưỡng bằng nguồn sữa ngọt ngào của nhân dân.


Những dòng thơ hối hả dạt dào tuôn chảy như để diễn tả niềm vui sướng tột cùng của tác giả khi anh được trở về giữa vòng tay yêu thương trìu mến của nhân dân. Niềm hạnh phúc ấy được Chế Lan Viên thể hiện bằng những hình ảnh so sánh có sức gợi lớn: “nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “chim én gặp mùa”, “trẻ thơ gặp sữa”, “nôi ngừng gặp tay đưa”…


Tất cả đã thể hiện được lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với công lao to lớn của nhân dân. Chính nhân dân đã dìu dắt anh, bế anh qua cơn mộng tưởng, bi lụy của Điêu tàn để đến với một cuộc sống đầy “ánh sáng và phù sa”, đầy niềm tin yêu và nhiều ý nghĩa.


Gặp lại mảnh đất thân yêu ngày nào, tác giả như sống lại giữa bao kỷ niệm của một thời kháng chiến gian khổ mà thắm thiết nghĩa tình quân dân. Cách xưng hô của anh thấm đượm một tình cảm thiết tha, anh xem mình như một người con của Tây Bắc, người con của Tổ Quốc.


Con nhớ anh con người anh du kích…

Con nhớ em con thằng em liên lạc…

Con nhớ mế lửa hồng soi tóc hạc.


Nhân dân hiện lên bằng những con người cụ thể, hành động cụ thể. Đó là anh, là em, là mế – là những người từng gắn bó máu thịt với tác giả trong mười năm trường kháng chiến, những người đại diện cho nhân dân với tình cảm gia đình ấm áp. “Con nhớ anh con”, “Con nhớ em con”, “Con nhớ mế”, cấu trúc thơ được lặp đi lặp lại trong một điệu thơ da diết? nỗi nhớ ấy cứ hằn sâu trong lòng tác giả như nhắc nhở, như nhắn nhủ về một miền quá khứ đầy tình nghĩa.


Cuộc kháng chiến đầy gian khổ, họ đã phải nhường nhau từng miếng cơm, manh áo. Tấm áo vá rách được gửi lại cho tác giả không chỉ mang hơi ấm của người anh du kích mà trong đó còn gửi lại cả bao nhiêu niềm tin yêu và lí tưởng của người đi trước dành cho người đi sau. Cứ như vậy, thế hệ này cho đến thế hệ khác đã đứng lên bảo vệ mảnh đất Tây Bắc thân yêu trong sự yêu thương che chở, đùm bọc, trong ý chí quyết tâm, trong sự thông minh, gan dạ, dũng cảm.


Nhưng có lẽ xúc động nhất ỉà tình cảm mà nhà thơ đã dành cho người mẹ. Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau mế thức một mùa dài Con với mê' không phải hòn máu cắt Nhưng suốt đời con nhớ mãi ơn nuôi.


Những câu thơ chan chứa lòng biết ơn sâu nặng, sự gắn bó chân thành thâm thìa của một tấm lòng, một trái tim biết nghĩ và biết sống. Tác giả nhớ về người mẹ nuôi năm xưa với tất cả nỗi niềm kính phục. Đó là người đã ủ ấm, chở che, đã làm dịu những vết đau trên thịt da và trong tâm hồn tác giả. Đôi với nhà thơ mỗi lần nghĩ về mẹ là nghĩ về một chỗ dựa vững vàng tin cậy.


Nỗi nhớ của tác giả đi từ những con người, những gương mặt cụ thể chuyển sang những hoài niệm khái quát về nhân dân. Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ. Với điệp từ nhớ được dùng trong một câu thơ đã diễn tả được cái nhớ dồn dập, ào ạt. Tác giả không biết nén sắp xếp thế nào cho vừa, cho đủ nên đã hạ một câu thơ đầy suy ngẫm: “nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương”.


Tình yêu đối với mảnh đất này, đối với người dân ở đây như một lẽ tất yếu, đất ấm nồng, người tình nghĩa thì có cớ gì mà tác giả lại quên. Nhớ “sương giăng”, nhớ “mây phủ” là nhớ tất cả khung cảnh và con người của Tây Bắc. Nỗi nhớ ấy được nâng lên thành một lẽ sống.


Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.


Hai câu thơ mang màu sắc triết lí, triết lí mà không khô khan, triết lí mà vẫn đầy cảm xúc, vẫn giàu sức lay động lòng người. “Khi ta ở chỉ là nai đất ở” – con người quả thật rất dễ thờ ơ, vô tâm với những gì mình vốn có, đặc biệt là với đất, một hình ảnh vô tri vô giác, nhưng khi ta đi rồi, ta không còn nắm bắt được nó thì lại cảm thấy thiêng liêng nuôi tiếc, vì nó dường như là một phần tâm hồn ta, một phần máu thịt ta.


“Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” – thực ra thì đất và người đã có sự gắn bó thân thiết từ lâu lắm rồi mà người chưa cảm nhận được hết, nay người đi xa người mới nhận ra là đất cũng có tâm hồn. Tâm hồn của đất hay nói đúng hơn là tâm hồn của người gửi lại cho đất.


Câu thơ viết về đất mà thực ra là để nói lòng người, nói sự thủy chung và đạo lí làm người. Mỗi bản làng, mỗi con đường mà tác giả đã đi qua, đã từng gắn bó giờ đây đều được gọi dậy trong nỗi nhớ, nhưng cái nhớ đắm đuối nhất, cái nhớ nhiều đam mê nhất vẫn là cái nhớ dành cho “em”.


Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.Nỗi nhớ em được gọi về từ nỗi nhớ nhân dân, đất nước. Cái riêng hòa trong cái chung. Cái chung được đặt lên trên hết nhưng không vì thế mà thờ ơ nhạt nhẽo với cái riêng. Ngược lai, cái chung đã làm cho cái riêng thêm thiêng liêng, ý nghĩa. Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên dung dị, chân chất nhưng không kém phần tha thiết. Tác giả thường hay nghĩ đến người yêu giữa mùa đông giá rét.


Cái rét đầu mùa anh rét xa em

Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa

Một đắp cho em ở vùng sóng bể

Một đắp cho mình ở phía không em.

(Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể)


Dường như trong giá lạnh, người ta thường xích lại gần nhau hơn, người ta cần đến nhau hơn. “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”, đây không phải là nỗi nhớ chợt đến vì thực ra trong lòng anh lúc nào cũng có hình bóng của em, và giờ đây được sống giữa nhân dân ấm áp tình người, anh bỗng nhớ đến em bằng một “nỗi nhớ chưa bao giờ nhớ thế”. Chưa lúc nào anh lại nhớ em da diết như thế này.


Anh với em là một, “đông” không thể thiếu rét và “anh” không thể thiếu “em”. Tình yêu giữa anh và em giản dị, thanh cao nhưng cũng sực nức hương thơm và lắm sắc màu thú vị qua những hình ảnh so sánh độc đáo, kì lạ. Tình yêu thấm vào cái lạnh của mùa đông, cái rạo rực của mùa hè, cái mơ màng của mùa thu, cái tràn trề của mùa xuân. Và giờ đây, nỗi nhớ quê hương, đất nước lại được gọi về từ nỗi nhớ em.


Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương. Câu thơ như một chân lí về tình yêu. Tình yêu ở đây không chỉ đơn thuần là của anh dành cho em nữa. Không phải chỉ vì tình yêu của em mà anh mới gắn bó với mảnh đất này mà còn cả tình cảm của bao người, của quê hương làng bản, của nhân dân. Tất cả những tình cảm ấy, nghĩa tình ấy đã làm cho miền đất Tây Bắc anh hùng trở thành quê hương thiêng liêng trong lòng tác giả. Những kỷ niệm êm đềm vẫn tiếp tục chảy về trong miền kí ức của nhà thơ.


Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Bắp xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.


“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch” là một hình ảnh đẹp, nhiều hứa hẹn, là sự trọn vẹn giữa tình riêng và nghĩa chung. Để đưa được “vắt xôi” ra trận tuyến đã phải trải qua bao nhọc nhằn gian khổ. Những gian khổ ấy, công lao ấy không thể ghi hết được. Song cho đến bây giờ, tác giả vẫn như còn ngửi thấy hương khói thơm nồng của bữa xôi đầu tiên. Bao nhiêu kỷ niệm chồng chất cứ lần lượt xô đẩy nhau về thôi thúc, réo rắt tâm hồn tác giả thành một câu hỏi lớn.


Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi

Tình em đang mong tình mẹ đang chờ

Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội

Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.


Thực ra thì đất nước đang cần mà lòng ta, bước chân ta cũng muôn đi, cũng muôn trở về mảnh đất thân yêu xưa vì ở đấy còn có bao người đang đợi mong tác giả. “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ” vậy thì còn chần chừ gì nữa mà không lên đường. Tiếng gọi ấy vọng về từ trái tim, thôi thúc cả hồn thơ tác giả vì đó thực sự là cuộc trở về với ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo.


Nhà thơ muốn đến thật nhanh, không phải muốn đến nữa mà muốn bay về ngay với miền đất Tây Bắc để được ngắm nhìn những ngôi nhà, những khuôn mặt, những tiếng nói, những mùa bội thu.


Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga

Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào

Rẽ người mà đi vịn tay mà đến

Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao

Nhựa nóng cần lao nhân dân máu đổ

Tây Bắc ơi người là mẹ của hồn thơ.


Hình ảnh của nhân dân, đất nước náo nức đi về trong tất cả giác quan của tác giả. Đâu đâu trong tâm trí của nhà thơ cũng vang lên âm thanh của cuộc sống, của vùng đất Tây Bắc. Cuộc sống ấy, vùng đất ấy gợi hứng cho thơ ca, gợi hứng cho nghệ thuật.


Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa

Nay trở về ta lấy lại vàng ta

Lấy cả những cơn mơ ai bảo con tàu không mộng tưởng?

Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng

Lòng ta cũng như tàu ta cũng uống

Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.


Vùng Tây Bắc đã có biết bao tiềm năng quý giá nhưng những năm tháng chiến tranh kéo dài đã vùi lấp mất những tiềm năng ấy, nay là lúc phải trở về để khôi phục, để đánh thức nó sau một giác ngủ dài ngày. Đánh thức những tiềm năng cũng chính là thức dậy cái tương lai đẹp đẽ của đất nước, của núi rừng Tây Bắc. Đánh thức nó bằng khát vọng lên đường, khát vọng đi xa.


Ra đi để lấy lại giá trị vốn có bao đời của mảnh đất, lấy lại những cơn mơ, những điều mộng tưởng và thay vào đó là những hành động thiết thực, cải hóa một miền đất đã bị đạn bom tàn phá. Mặt đất ấy giờ đây khô cằn sỏi đá nhưng dường như vẫn hiểu được sự gian khổ, cần lao của lòng người.


Tàu uống trăng để có nhiều khát vọng, tác giả uống trăng để thêm nhiều thi hứng. Và bài thơ đã được kết thúc giữa một hình ảnh rạng ngời sức sống, rạng ngời niềm hi vọng. “Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân” là hình ảnh có sức gợi lớn, sức gợi trong lòng người, sức gợi giữa đất trời về một đất nước trong tương lai, một Tây Bắc trong tương lai tràn ngập sức xuân, tình xuân.


Những câu thơ kết bài được viết dính kết, móc xích vào nhau thể hiện mạch cảm xúc tuôn trào của tác giả. Lắng lại sau muôn vàn nỗi nhớ là niềm tin về một ngày mai tươi sáng đẹp đẽ. Niềm tin ấy được khẳng định ở ý chí, nghị lực và quyết tâm xây dựng những vùng đất mới. Khát vọng lên đường của Chế Lan Viên cũng chính là khát vọng về sự sống mà Hoàng Trung Thông đã từng quả quyết trong bài Bài ca vỡ đất.


Bàn tay lao động

Ta gieo sự sống

Trên tầng đất khô.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy