Top 10 Bài phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ hay nhất
Suốt bao năm lặn lội, thâm nhập vào cuộc sống của con người vùng cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn nhà văn Tô Hoài. Những bản làng chìm trong sương ... xem thêm...với những người dân chân chất, thật thà . Những con người sống trong cảnh đời cơ cực đầy những bất công dưới xã hội cũ nhưng lòng vẫn cháy không nguôi khát vọng sống mạnh mẽ tựa như sức sống vững vàng của núi, của rừng. Phẩm chất tốt đẹp đó của con người vùng cao được Tô Hoài phản ánh qua khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Mời độc giả tham khảo một số bài văn phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị sau đây:
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 1
Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.
Vợ chồng A Phủ ra đời khi Tô Hoài cùng đơn vị bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời gian dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm không cảm xúc, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời gian, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến nguy cơ có phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha không bán mình đi mà cô sẽ chăm chỉ làm việc để trả nợ dần. Mị hội tụ đầy đủ trong mình những yếu tố được hưởng một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ giây phút đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt tinh thần. Nhưng không, bản chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.
Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn đầu tiên của Mị. Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên này. Trước hết là không khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và tinh thần mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.
Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, khiến cho Mị bất ngờ quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.
Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khát khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may để ý đến A Phủ, nhưng đêm ấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ đến cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc như vậy nhưng không một ai để ý. Giọt nước mắt ấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết” “người kia việc gì mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, khi Mị đã nhận ra sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức kẻ thù, đây chính là bước đầu tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.
Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị đến một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp lí, bởi đó là hành động của tình yêu thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy bản lĩnh và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ không đơn thuần chỉ là sự giao tiếp mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ ấy đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.
Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận bất hạnh.
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 2
Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam đương đại. Tài năng của ông được ghi dấu trong lòng độc giả bởi rất nhiều sáng tác có giá trị. Trong số đó, đặc sắc nhất phải kể đến truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn sáng tác trong chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953. Tác phẩm tái hiện cảnh sống bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân. Nổi lên trên bối cảnh thối nát của chế độ xã hội, Tô Hoài tập trung ca ngợi tâm hồn, phẩm chất tốt đẹp cùng sức sống mãnh liệt của con người. Có lẽ, đến với “Vợ chồng A Phủ” không ai trong chúng ta có thể quên được một cô Mị, đau khổ, cam chịu nhưng lại tiềm tàng sức sống mãnh liệt quật cường. Mị là nhân vật kết tinh bởi những giá trị tinh thần cao đẹp, giá trị nhân đạo sâu sắc mà Tô Hoài gửi gắm.
Sức sống tiềm tàng, hiểu đơn giản là khao khát chính đáng một cuộc sống có ý nghĩa của một “con người” vốn bị che lấp bởi hoàn cảnh, bởi sự cam chịu nhưng có thể bùng lên mãnh liệt khi có tác động. Để thấy được sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, trước hết, chúng ta phải hiểu hoàn cảnh mà nhân vật đang sống. Mị vốn là một cô gái trẻ vừa đẹp người, vừa đẹp nết. Mị cần cù, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, yêu đời và rất mực tài hoa. Một cô gái như thế đáng lẽ phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng, “hồng nhan bạc mệnh”, cuộc đời xô đẩy Mị vào hoàn cảnh phải làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Một danh phận bẽ bàng làm sao – làm dâu trừ nợ. Chính vì vậy, tại nhà thống lí, Mị không khác gì một kẻ tôi đòi, đầy tớ. Mị phải “vùi vào làm việc cả đêm cả ngày” “quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên”. Mị gần như tê liệt hết về sức sống. Mị “tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm thôi”. thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, trở thành “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cuộc sống của Mị trở nên vô nghĩa, nhạt nhẽo, tất cả thu lại bằng ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay mờ mờ trăng trắng trông ra không biết là sương hay là nắng. Tất cả những điều đó khiến chúng ta không thôi liên tưởng Mị giống như cái xác không hồn, không quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều gì đã biến một thiếu nữ đương độ xuân thì, phơi phới yêu đời trở nên cam chịu, chấp nhận cuộc sống vô nghĩa như vậy? Chính bởi gánh nặng của mấy tầng áp bức cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến ở miền núi. Sự mục nát của xã hội tất yếu sản sinh ra thế hệ người không có tiếng nói, dù là tiếng nói vì quyền sống của mình như nhân vật Mị.
Tuy nhiên, nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở việc thể hiện sự u mê, mông muội của con người trước hủ tục và cái ác thì có lẽ “Vợ chồng A Phủ” đã không gây ấn tượng với độc giả như vậy. Cái hay của Tô Hoài là ông không để nhân vật của mình vĩnh viễn chìm trong tăm tối. Đối với Mị, sức sống vẫn luôn tiềm tàng, chỉ cần một sự đánh thức kịp thời có thể khiến nó trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Khi mới về làm dâu nhà Pá Tra, Mị cũng đã từng phản kháng dù chỉ là sự phản kháng yếu ớt là khóc: “có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, khóc vì không muốn chấp nhận hiện thực, vì không cam lòng. Cũng đã có lúc, Mị nghĩ đến việc kết thúc cuộc đời vô nghĩa, đau khổ bằng cách ăn lá ngón tự tử. Tìm đến cái chết, có thể với Mị chính là một sự giải thoát, biểu hiện cho sự không cam chịu, sự kháng cự trong tuyệt vọng.
Mị đã từng kháng cự nhưng có thể nói, ý chí đấu tranh ở Mị khi ấy không đủ sức vượt qua lề thói xã hội, lòng hiếu thảo hay cường quyền nên nó nhanh chóng vụt tắt. Mặc dù vậy, nó vẫn luôn âm ỉ cháy trong tiềm thức của Mị. Để rồi, đêm tình mùa xuân đến với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình, như mồi lửa nhỏ làm bùng lên ngọn lửa khát khao sống, khát khao hạnh phúc trong Mị. Mị cũng uống rượu, “Mị… cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say”. Mùa xuân đến gọi về trong Mị biết bao hồi ức đẹp đẽ “Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị thoát khỏi tâm trạng dửng dưng bấy lâu để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp đẽ. “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” làm lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy “trong lòng đột nhiên vui sướng… Mị trẻ lắm… Mị muốn đi chơi” Lúc này,ý thức về bản thân trong trỗi dậy. Mị biết mình cần gì, mình muốn gì chứ không còn là cái xác vô hồn,dửng dưng với đời như trước nữa. Càng nhận thức được bản thân, nhận thức được hoàn cảnh, Mị càng phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình. Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao. Sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích tàn bạo trong nhà thống lí Pá Tra, thách thức mọi ràng buộc khắt khe của cường quyền. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm sống kiếp con vật, khao khát biến thành hành động: “Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa” chuẩn bị đi chơi ngày Tết. Giữa lúc ngọn lửa của lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, bùng lên mãnh liệt thì A Sử, chồng Mị đã xuất hiện vùi dập tất cả, hắn thản nhiên “trói đứng Mị vào cột nhà”. Thế nhưng, khi người đọc tưởng như lại một lần nữa Mị sẽ đầu hàng số phận thì Mị “như không đang biết mình đang sợ bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Sức sống tiềm ẩn trong con người Mị khiến Mị quên hết nỗi đau thể xác, “Mị vùng dậy bước đi”.
Dường như, Mị đã hoàn toàn thức tỉnh. Đặc biệt, qua hành động cởi trói cho A Phủ rồi cùng nhau trốn khỏi Hông Ngài thì sức sống tiềm tàng nơi Mị đã bùng phát mạnh mẽ đến độ ngang nhiên tuyên chiến cả thế lực bạo tàn để đòi quyền sống.Mị đã trông thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc từ cách đó mấy hôm nhưng mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên “thổi lửa hơ tay” . Với Mị, chuyện đánh người, trói nguời ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Hơn nữa, dù có thương xót, đồng cảm với A Phủ thì Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực. Đến đêm nay, dưới ánh lửa “bập bùng” trông thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ, Mị càng thương mình, càng thương người. Mị nghĩ “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị cũng biết, nếu cởi trói cho A Phủ, “Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy”. Nhưng tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Mặc dù đây là hành động tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Hành động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ đánh dấu bước ngoặt trong tính cách và cuộc đời Mị. Với hành động này, Mị không chỉ giải thoát cho A Phủ mà còn giải thoát cho chính mình. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục, Mị đã tuyên chiến với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến (là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi) để đòi quyền con người cho chính mình.
Qua việc miêu tả tâm lí nhân vật hết sức tinh tế, Tô Hoài đã thành công cho thấy vẻ đẹp đáng trân trọng của tâm hồn, khát vọng sống mãnh liệt khuất lấp sau những hình hài câm lặng và cam chịu của những người dân nghèo vùng núi, đặc biệt là người phụ nữ. Cũng qua đây, nhà văn lên tiếng tố cáo xã hội mục nát dưới sự cai trị của thần quyền, cường quyền đã trà đạp lên quyền sống chính đáng của con người. Đồng thời, với việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài một lần nữa bày tỏ thái độ bênh vực, trân trọng, thương xót những kiếp người nhỏ bé trong xã hội phong kiến thực dân. Từ đó, nhà văn kêu gọi con người dũng cảm đấu tranh cho sự sống, cho quyền con người chân chính. Đó có lẽ là lí do vì sao “Vợ chồng A Phủ” được coi là tác phẩm đầy tinh thần nhân đạo sâu sắc và tính nhân văn cao cả!
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 3
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như "Ổ chuột", "Dế mèn phiêu lưu ký". Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như "Truyện Tây Bắc", "Miền Tây" Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.
Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ " chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.
Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai "ngày đêm thổi sáo đi theo Mị". Mị yêu lao động "biết cuốc nương làm ngô". Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lí, Mị tha thiết van xin "bố đừng bán con cho nhà giàu". Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.
Lúc đầu mới về "làm dâu" để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã "hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc". Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay "trông ra ngoài không biết sương hay là nắng". Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày "tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp". Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá "càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ?
Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được "tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường". Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động "nổi loạn nhân tính". Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu" Mị uống ực từng bát rồi say". Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước". Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ "Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.
Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu "không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau". Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.
Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật "Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách". Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi dây, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.
Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang "đi theo những cuộc chơi những đám chơi". Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn "Mị vùng bước đi". Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi "tay chân đau không cựa được" lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong "hơi rượu tỏa" cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì "nồng nàn tha thiết nhớ". Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết "Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết". Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn "Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai". Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.
Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng "Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi" nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ "bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận "chúng nó thật độc ác". Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: "Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi". Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùng lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt đứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám đứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: "A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất". Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.
Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.
Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 4
Sau cách mạng tháng 8, ngòi bút của Tô Hoài đi sâu khám phá sức sống mạnh mẽ của những người dân tộc thiểu số miền núi. Trong chuyến đi lên vùng núi phía Bắc của mình, ông đã cho ra đời tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, mang trong mình sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như bao người con gái khác, chịu thương chịu khó, có một sức sống mạnh mẽ. Mặc dù gia đình gánh trên vai món nợ truyền kiếp, nhưng cô sẵn sàng nói với cha để minh lao động rồi trả nợ dần; cô trẻ trung, yêu đời, có tiếng sáo hay khiến biết bao chàng trai say đắm. Nhưng sau đêm bị A Sử bắt về, “Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” thì cuộc đời của cô đã sang một trang khác, đầy bi thương và thảm kịch.
Những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phải chịu bao nỗi đắng cay, tủi cực. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Quanh năm cô quanh quẩn làm việc, chẳng có lấy một giây phút nghỉ ngơi. Nơi ở của cô chẳng khác nào nhà tù, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.
Phải chăng sức sống, sự yêu đời của cô trước đây đã bị bào mòn cạn kiệt? Nhưng không qua đêm tình mùa xuân và đêm đông tự giải cứu chính mình, ta biết rằng trong sâu thẳm người con gái kia, niềm yêu cuộc sống vẫn tiềm tàng mạnh mẽ.
Trong những ngày mùa xuân, không khí rộn vang, tưng bừng hơn. Những tảng đá mèo được tô điểm bởi những chiếc váy rực rỡ, tựa như những bông hoa rộ nở; tiếng trẻ em vui đùa càng trở nên vui vẻ, đầy phấn khích. Lòng Mị cũng chợt có những tia sáng nhỏ le lói. Mùa xuân ai cũng uống rượu và Mị cũng vậy. Nhưng cách uống rượu của Mị lại rất khác, cô uống ừng ực từng bát lớn, uống để tiêu tan sầu muộn. Dường như trong mờ hồ Mị bắt đầu sống lại niềm yêu cuộc sống. Rồi bất chợt “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sau vọng lại tha thiết, bồi hồi”. Tiếng sáo này đã thực sự khơi lại sức sống trong Mị. Nó khiến Mị nhớ lại những ngày trước đây, về những ngày tự do, yêu đời cả mình. Tiếng sáo thấm dần vào tâm trí, trái tim Mị, dần thức tỉnh cô.
Tiếng sáo thức tỉnh khao khát được đi chơi, được giao tiếp với mọi người. Từ trước đến nay Mị chưa bao giờ được đi chơi, bởi A Sử cấm. Một cách đầy hữu ý tiếng sáo lại xuất hiện “trong đầu Mị rập rời tiếng sáo” đã thúc đẩy từ suy nghĩ trở thành hành động nổi loạn của Mị. Mị vào buồng sẵn mỡ thắp cho sáng, rồi với tay lấy vát chuẩn bị đi chơi. Để Mị có thể rời xa hiện tại đau thương trở về với quá khứ vui vẻ. Nhưng khi hành động chuẩn bị được tiến hành, Mị bị A Sử bắt gặp, hắn dùng chính tóc cô mà trói đứng lại ở tường. Cô khóc, bởi không ai giúp mình, bởi quá khứ tươi đẹp một lần nữa ùa về trong cô, đánh thức con người tưởng như đã chết trong cô.
Sau lần phản kháng đầu tiên, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái sống mòn. Trong lúc này, A Phủ một người cũng có thân phận chuộc nợ như Mị, do làm mất bò mà bị trói đứng ngoài sân. Đêm nào Mị cũng ra sân đốt lửa, nhưng tuyệt nhiên không chú ý đến A Phủ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi khi này lòng Mị đã nguội lạnh, tâm can đã câm nín, chính số phận mình Mị đã chẳng còn quan tâm nữa, huống chi số phận người khác.
Nhưng trong lần ấy, dưới sự tác động của giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã thay đổi suy nghĩ hoàn toàn: “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt đó khiến cô bất giác nhớ về mùa xuân trước đây, khi cô bị trói đứng, cô khóc nhưng không ai đến giúp cô cả, cũng không thể lau đi được. Giọt nước mắt của A Phủ đã làm trỗi dậy sức sống của Mị. Trong Mị hình thành tình thương và sự hi sinh: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rủ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Mị đã quyết định giải cứu A Phủ. Đây không phải là quyết định bồng bột nhất thời mà nó xuất phát từ sự đồng cảm, từ lòng yêu thương con người.
Sau khi giải cứu A Phủ, trong một khoảnh khắc Mị cũng vụt chạy theo A Phủ để giải cứu cho chính mình. Hành động cởi trói tư tưởng giải cứu chính mình là hành động tuy bất ngờ nhưng vô cùng hợp lí. Nó cho thấy sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ trong Mị.
Với biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc chân dung của một người con gái không chỉ đẹp người, đẹp nết mà còn có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Mị là đại diện tiêu biểu cho sức sống của con người, là đại diện cho hành trình đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc của những người nông dân dân tộc thiểu số.
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 5
Theo Tô Hoài "Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước tiên". Từ quan điểm ấy, Tô Hoài đã xây dựng được một số nhân vật để lại ấn tượng thẩm mĩ trong lòng người đọc. Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đến với chúng ta đầu tiên trong cái dáng "lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa", suốt ngày làm lụng, "lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Tưởng đâu như sức sống đã lụi tàn trong tâm hồn cô gái. Nhưng không, từ tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói những tia lửa sống chỉ chờ dịp mà bùng lên mạnh mẽ.
Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Thường thì, khi con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc (dù trong đói nghèo). Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng "chật cả chân vách đầu buồng Mị". Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và tài hoa ấy luôn luôn mở rộng để đón nhận mọi hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bị bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. "Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa." Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thống lí là trả cho cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.
Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị cướp đoạt "đêm nào Mị cũng khóc". Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đối xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ "ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi". Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn tìm hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tình cảnh mà cô phải chịu.
Trước khi về cửa nhà thống lí, Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ, đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh... Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu chàng trai. "Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị". Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu một cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn, héo úa – điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt , muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí. Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thống lí. Sống trong nhà thống lí, ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khác "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của "căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng."
Ý thức làm người vốn có của Mị đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. Càng ngày cô càng không nói chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống còn con người thực vốn có của cô thì dường như đã chết. Mị chỉ là cái bóng vô cảm, vô hồn, lãng quên dĩ vãng, không gắn bó với hiện tại, nghĩ đến tương lai. Tô Hoài rất thành công khi diễn tả tinh thần chết dần , chết mòn của một cô gái xinh đẹp. Nhưng càng thành công trên lĩnh vực ấy bao nhiêu thì khi thể hiện quá trình hồi sinh của Mị càng khó bấy nhiêu. Phải chăng, cuộc sống thực tại đã làm tâm hồn Mị nguội lạnh, thờ ơ, phải chăng cô Mị xinh đẹp ngày xưa nay phải cam chịu cảnh sống mà như chết? Cuộc sống của Mị dường như đã rơi vào bi kịch, làm sao để giải thoát được bi kịch ấy, làm sao cho quá trình hồi sinh ấy được vận động như ý của nhân vật chứ không phải là khát vọng của nhà văn gán cho nó.
"Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi". Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị tưởng như đã nguội tắt. Mị còn nhớ như in những lời hát tình tứ mà Mị đã nghe, đã hát, đã thổi sáo, thổi kèn lá ngày nào. Hiện tại bây giờ cô đang sống lại cảnh tượng ngày xưa. Cô đâu phải là con người "chết dần chết mòn" về nhân tính như Chí Phèo. Tiếng sáo giờ đây đã thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Rồi Mị uống rượu, men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị lên, tâm hồn Mị thoát xác, vượt ra ngoài cái ô cửa "mờ mờ trăng trắng kia". Khát vọng được đi chơi bỗng bùng cháy trong tâm hồn Mị. Khát vọng ấy là cuộc khởi nghĩa nhân tính trong Mị. Bởi vì, từ ngày về làm dâu nhà thống lí "Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi". Vậy mà, khi "tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới". Mị bỗng vùng dậy đột ngột, "tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng". Sau bao năm sống trong gia đình thống lí, lần đầu tiên tiếng sáo của ai đó đến với Mị như một âm thanh của hiện tại. Rồi sau đó tiếng sáo làm sống lại bao rung động tâm linh của mùa xuân năm nào. Mới đầu tiếng sáo còn lấp ló nơi đâu núi, cuối cùng tiếng sáo đã thực sự hóa thân, nhập thân trong Mị. "Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo". Góp phần làm nên cuộc "nổi loạn" nhân tính trong Mị có nhiều yếu tố; yếu tố ngoại lực, yếu tố nội lực. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất phải chăng là tiếng sáo mùa xuân. Ngày xuân, không có gì cuốn hút Mị bằng tiếng sáo, tiếng sáo đối với Mị mỗi lúc một mãnh liệt. Từ đầu là những âm thanh xa xôi, sau đó tiếng sáo trở thành lời mời gọi giúp Mị lãng quên quá khứ, sống vui vẻ với tương lai, "tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi".
Quá trình hồi sinh của Mị đã không được miêu tả một cách dễ dãi, hời hợt. Tâm trạng nhân vật được nhìn nhận từ cái nhìn lưỡng phân. Con người hiện tại dường như đã chết, con người quá khứ đang dần dần từng bước được hồi sinh. Mị như cây hoa ban, hoa đào Tây Bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài thì có vẻ khẳng khiu, khô gầy, mỏng manh như đã chết nhưng bên trong sức sống vẫn âm ỉ, vẫn chờ thời để bừng sáng sắc xuân. Tết đến, Mị rất muốn đi chơi, nhưng A Sử không cho Mị đi, năm nào cũng vậy A Sử toàn đi một mình để Mị ở nhà như người xa lạ. Nhưng giai cấp phong kiến, gia đình nhà thống lí không thể cưỡng ép dược Mị lâu, một con người sức sống đang còn cháy rực trong tâm hồn. Lúc này khi "tiếng sáo đang lửng lơ bay ngoài đường" gọi bạn đi chơi mà Mị phải ngồi cô độc trong xó cửa. Cô không thể dằn lòng được "Mị vùng dậy khêu đèn sáng, cuốn lại tóc, mặc váy hoa vắt ở vách" toan bước đi, tìm đến nơi đang lửng lơ bay tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha. Nhưng Mị vừa toan bước đi thì A Sử lại kéo cô lại.A Sử không hề đánh đập, chửi rủa mà lầm lì như cái bóng từ từ trói cô vào cột nhà. Và bây giờ Mị mới bật khóc, khóc cho nỗi oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống "không bằng con ngựa". Nhưng cũng từ đấy sức sống của một cô gái yêu đời lại trỗi dậy. Trong bóng tối, cô đang mơ màng đi theo tiếng sáo, tiếng sáo ấy đã có lần đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhưng rồi quá khứ chưa đi, hiện tại lại về. Giờ đây, Mị đang bị A Sử trói, dường như cô sống mà như đã chết. Đã chết phần hồn lẽ nào giờ đây cô lại để chết cả phần xác, Mị thấy xung quanh mình chỉ là bóng tối, không một tiếng động, cô "vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa".
Thời gian lại trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc gỗ trong nhà thống lí vì để hổ bắt mất con bò... A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, và trở thành người ở gạt nợ của gia đình thống lí còn Mị là dâu gạt nợ. A Phủ - Mị có cùng một cảnh ngộ, cùng là người đi ở gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ bị trói đã mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Bởi vì, tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù , với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Sự cô đơn ấy cô đã từng nếm thử nhưng bây giờ nó cay và đắng lạ. Mị chỉ biết ngồi một mình bên bếp lửa. Dường như sức sống trong tâm hồn cô đã cạn dần? Không, ngược lại, sức sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó đã vỡ tung ra khi "Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị hé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ". Dòng nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng "nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được". Cũng như lần trước, một khi ý thức sống trỗi dậy, thì Mị lại nghĩ đến cái chết, nhưng lần này là một cái chết oan ức, vô lí của một người khác. Vì mê tín, vì đã là người của nhà thống lí, Mị cam chịu chết ở cái nhà này. Còn A Phủ việc gì phải chết, A Phủ phải được sống. Sau ý nghĩ ấy lòng thương người lớn hơn nỗi thương thân, Mị đã cam chịu chết thì cô sợ gì mà không cứu A Phủ. "Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cần biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi...Người kia việc gì phải chết".
Rõ ràng, Mị đã suy nghĩ kĩ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô sẵn sàng chịu trói thay cho A Phủ. Nghĩ đến lúc rơi vào tình cảnh ấy Mị cũng không thấy sợ. Ngược lại, lúc này cô bình tĩnh, can đảm hơn bao giờ hết. Đến giờ phút này thì việc rút dao cắt dây trói cho A Phủ là một việc làm tất nhiên có thể xảy ra. Đó là hành động tự bản thân Mị chứ không phải là sự phát triển của tình huống truyện do tác giả sắp đặt. A Phủ đã được giải thoát, lòng thương của Mị đã chiến thắng còn Mị vẫn đứng trong bóng tối. Vẫn biết rằng Mị không sợ hình phạt của thống lí, không sợ phải chết thay cho A Phủ vì chết đối với Mị là sự giải thoát. Mị vốn vẫn nghĩ thế. Nhưng thấy A Phủ đã chạy đi rồi, chạy đi đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống "Mị cũng vụt chạy ra" theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình. Hành động cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ một sức sống tiềm tài mãnh liệt. Trong tính cách của Mị, không một uy vũ nào có thể dập tắt nổi. Hành động chạy theo A Phủ là một hành động thật bất ngờ nhưng rất hợp lí. Lần này, thì sức sống mãnh liệt của Mị đã chiến thắng. Mị đúng là con người thật hơn con người thật. Đêm cuối cùng ở nhà thống lí Pá Tra, Mị đã thành thật xin A Phủ xin cho đi theo, lời xin ấy cũng chính là ngọn lửa lâu ngày âm ỉ nay đã được bùng cháy.
Nhân vật Mị đã thu hút người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống mà luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín mà luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí. Người đọc có cảm giác ấy là nhờ cách kể chuyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, "mờ mờ trăng trắng" soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí; một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời; những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí... Ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bên cạnh lòng thương xót sâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả các trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.
Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian ở nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mát. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đọa đày, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng sa sau này.
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 6
Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta ko thể quên được tác phẩm "Dế mèn phiêu lưu kí"- tác phẩm tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ.
Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhớ đến Tô Hoài với tác phẩm "Cát bụi chân ai... Cho đến nay, "Vợ chồng A Phủ" vẫn là cái mốc thách thức với chính Tô Hoài, truyện đc giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc đời của Mị - một cô gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài xây dựng chân thực và sống động với sức sống tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là 1 ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sê-khốp đã từng nói: "1 người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ". Tô Hoài là 1 nhà văn như vậy.
Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc đời hạnh phúc, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa khi cưới nhau đã ko có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra - tức ông của A Sử 10 đồng bạc trắng, mỗi năm phải trả lãi 1 nương ngô. Cho đến nay bố Mị đã già, mẹ Mị đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra đến gạ bố Mị gả Mị cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị đã phản ứng lại ngay: "Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm nương ngô trả nợ cho người ta. Bố đừng bán con cho nhà giàu". Đây chỉ là 1 câu nói bình thường nhưng đã thoát ra cả 1 con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị là 1 sự đánh tráo, đánh đổi: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1 cuộc đời hp trong tự do còn hơn phải làm con dâu của nhà giàu, sống kiếp đời trâu ngựa, nô lệ. Sự đánh tráo, đánh đổi ấy chỉ có thể có được ở những con người mạnh mẽ, tự tin, biết quí trọng danh dự, nhân phẩm của chính bản thân mình. Có câu: "Thân gái như hạt mưa sa", việc người con gái được sa vào cửa nhà giàu, đó là ước mơ, thậm chí còn là sự toan tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người có sức sống tiềm tàng bất diệt thì Mị ko chấp nhận điều ấy bởi Mị hiểu rõ gia đình nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ bản chất của cuộc hôn nhân gả bán này: "Bố đừng bán con cho nhà giàu". Rõ ràng chỉ là 1 câu nói giản đơn nhưng phần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức sống tiềm tàng bất diệt.
Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thoát được. Mị bị bắt cóc, bị lường gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó. Biết được điều này "có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc". Mị ko chấp nhận cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy chào cha để định quyên sinh. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi kịch gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt: "Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi ko lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko được, con ơi!"
Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước 1 hoàn cảnh éo le, oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến ý định tự tử lại thể hiện sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý?
Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn cảnh của Mị đó lại là 1 điều hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết như 1 con người còn hơn phải sống như 1 con vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để được làm người còn hơn phải sống cuộc sống chết dần, chết mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu làm theo sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng thì Mị phải trà đạp lên chữ "hiếu", Mị ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ "hiếu" Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa võng, dấn thân vào đó là dấn thân vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết được điều này nhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha. Đọc đến đây ta nhớ đến bi kịch của Thuý Kiều hơn 200 năm trước "bán mình chuộc cha". Hôm nay bi kịch ấy lại đổ dồn lên đôi vai gầy của người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta đang tiến lên Chủ nghĩa xã hội nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới cuộc sống của những người vùng cao. Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn văn chương, nói như Hồ Chí Minh: "Văn học nghệ thuật là 1 mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Tô Hoài thông qua "vợ chồng A Phủ" đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để "cứu đất cứu Mường". Bắt đầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa. "Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết được, điều này đã được Tô Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn phai, mai một: "Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra...cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãng mạn. "Vợ chồng A Phủ" xứng đáng là 1 minh chứng cho lời nhận định: "Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 có sự kết hợp hài hoà giữa 2 nhân tố hiện thực và lãng mạn". Nhưng điều ta quan tâm hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi mô tả sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp, âm thầm trong tâm hồn người phụ nữ:
Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra phơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,... Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị - 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị bắt đầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang phải chịu quá nhiều đau khổ.
Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng kèn lá, kèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:
"Anh ném pao
Em ko bắt
Em ko yêu
Quả pao rơi rồi"
Hay:
"Mày có con trai, con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai, con gái
Tao đi tìm người yêu"
Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã đánh thức dậy 2 tiếng "ngày xưa" từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cuộc đời phi ko gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là 1 căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ, trăng trắng, không biết ngày hay đêm, sương hay nắng. Khi 1 người không nhận thức được ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là ko nhận thức được ko gian và thời gian, cũng đồng nghĩa với sức sống của họ đang tàn phai, mai một. Hôm nay thì khác, thời gian đã trở về với Mị, thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ ngày xưa mới là hạnh phúc. Thế là Mị luôn hướng về ngày xưa, hướng về quá khứ, muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những cay đắng trong hiện tại.
Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài rất khéo léo khi đưa bất cứ 1 hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gia đình nhà thống lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng, náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi. Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành đòi hỏi bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong lồng ngực. Mị uống như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ hạnh phúc. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hạnh phúc trong mối tình đầu. Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn 1 miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây ko còn là chi tiết sinh hoạt nữa mà nó trở thành 1 chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây ko thiết sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp, bẩn thỉu... Mị cũng chẳng bận lòng. Hôm nay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở về với Mị. Mị muốn đời mình phải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị chuẩn bị, sửa soạn đi chơi. Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi 1 người đàn bà khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian bỗng 1 hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là dấu hiệu đầu tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó 1 cách phũ phàng, hắn trói Mị bằng một thúng dây đay từ chân lên đầu. Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện trong Mị, Mị thấy mình ko bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn được đổi tàu, còn được gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc ko tự lau được nước mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.
Cuộc đời của Mị sẽ cứ như thế cho đến chết nếu như Tô Hoài ko để cho Mị gặp đc 1 người. Người ấy đã tiếp cho Mị 1 sức mạnh vô cùng để 1 lần nữa sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy để giải thoát đời mình, giải thoát người cùng cảnh ngộ, đó là A Phủ. A Phủ bị trói, bị bỏ đói hàng tuần lễ giữa những ngày mùa đông đầy sương muối ở vùng cao. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa để hơ tay. Mị vẫn nhìn thấy A Phủ nhưng có lẽ sống lâu trong địa ngục trần gian, trong gia đình nhà thống lí mà việc đánh trói con người còn nhiều hơn cơm bữa nên lòng thương người của cô Mị nết na đã bị chai sạn, chai lì. Vẫn nhìn thấy A Phủ. Mị không động lòng thương nhưng nay thì khác. Chợt nghe thấy tiếng thở phì phì của A Phủ, Mị bất chợt nhìn sang và giật mình nhận thấy 1 chàng trai to khỏe nhất bản giờ đây đã bị đánh đến tiều tuỵ, mặt xám lại, má hóp sâu, 2 con mắt trũng sâu đầy bóng tối. Và đúng lúc đó, 2 hàng nước mắt từ hai hố mắt lặng lẽ bò xuống hõm má. Mị cảm thấy ko thể đành lòng, niềm thương cảm chợt dâng lên trong lòng Mị, Mị nhớ đến mình ngày trước cũng bị trói, bị đánh như thế. Thương mình Mị lại thương người, Mị ném ra câu nói như thế này trong bóng tối: "Ta là thân đàn bà nó đã trình ma nhà nó chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đây, người kia việc gì phải chết...A Phủ". Khi 1 người đàn bà khổ đau, sống lầm lũi trong bóng tối bỗng 1 hôm ném ra câu hỏi như thế, đó là khởi đầu của sự nổi loạn. Sức sống tiềm tàng đã trỗi dậy thành sức mạnh, sức mạnh ấy đã biến 1 người đàn bà yếu đuối thành 1 người can đảm, biến 1 người nhẫn nhục trở thành 1 người phản kháng. Chưa bao giờ người đọc lại thấy Mị liều lĩnh như thế. Nghĩ đến cái chết Mị cũng không sợ nữa, ý định cứu A Phủ đã đến với Mị trong khoảnh khắc Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói: "A Phủ! Cho tôi đi!". Đây là 1 câu nói của lòng ham sống trong giờ phút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thế là 2 người nô lệ giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa.
Việc Mị giải thoát cho A Phủ có thể coi như 1 chiếc bản lề khép mở 2 thế giới. Nó khép lại thế giới tăm tối với kiếp sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài, đồng thời nó mở ra thế giới mới - thế giới tươi sáng ở phía Phiềng Sa. Với hành động này của Mị, nó đã đưa "vợ chồng A Phủ" trở thành tác phẩm bản lề trên diễn đàn văn chương Việt Nam. Nó khép lại những hạn chế của 1 dòng văn học hiện thực phê phán 1 thời. Nó mở ra 1 hướng đi mới cho văn học kháng chiến và đây nó trở thành mốc thách thức của chính nhà văn Tô Hoài. Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã gặp được ánh sáng của Đảng, gặp được cán bộ Cách mạng A Châu. Và 2 người đã tham gia Cách mạng, chỉ có Cách mạng mới soi sáng được kiếp người trâu ngựa, nô lệ. Và cũng chỉ có Mị và A Phủ mới là những người cách mạng trung kiên. Nói như nhà thơ Tố Hữu:
"Đời Cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là fải chịu khổ nhiều
Là gươm kề cổ, là súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn 1 nửa
"Vợ chồng A Phủ" mô tả quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện là ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Và "vợ chồng A Phủ" mãi là bài ca ca ngợi tự do, lòng yêu đời.
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 7
Vợ chồng A Phủ là chuyện thành công nhất trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Trong truyện này, nhân vật Mị có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mị bị chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình.
Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là người con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày . Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón chết. Nhưng khi nghe cha nói: Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ Không được con ơi!. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí.
Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào
Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.
Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà thống lí. A Phủ chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi lửa thấy mắt A Phủ trừng trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Cách miêu tả sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị bằng ngọn lửa bập bùng sáng lên thật là hay! Nàng nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này. Nàng nghĩ đêm mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận vào mình, biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là những tư tưởng nổi loạn trong lòng Mị và từ tư tưởng nổi loạn đến hành động nổi loạn chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ. Nàng rút con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: Đi ngay!. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã chạy theo A Phủ, A Phủ nói: Đi với tôi và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.
Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương người của Mị, còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã thức dậy trong tâm hồn nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do.
Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời gian Mị ở Hồng Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến thống trị của người H-mông đã chà đạp lên số phận của nàng, tưởng như nàng không còn con đường nào thoát khỏi sự hủy diệt. Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu nàng. Tô Hoài đã miêu tả một cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành động phản kháng tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng cách mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích cực trong đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu.
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 8
Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.
Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn.
Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.
Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy... cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi... ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa... của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.
Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo... Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời.
Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn... Khổ biết chừng nào!
Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng...
Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rổi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.
Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi...
Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ nay đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.
Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ. Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình: ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thề vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 9
“Vợ chồng A Phủ” là một trong ba tác phẩm đặc sắc viết về đề tài miền núi rút ra từ tập truyện “Tây Bắc” (1953) của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc và đầy xúc động về số phận của nhân vật Mị- cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra với những vẻ đẹp về ngoại hình, tinh thần cũng như sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung với khao khát chính đáng về cuộc sống tự do, khao khát tình yêu. Trong tác phẩm, tác giả Tô Hoài đã làm nổi bật hình tượng một cô gái miền núi không những xinh đẹp mà còn rất tài hoa, chăm chỉ. Vẻ đẹp của Mị khiến cho mỗi khi mùa xuân đến trai làng đứng nhẵn cả đầu vách buồng Mị. Như vậy, cô hoàn toàn có những phẩm chất đáng tôn trọng và rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Kể từ khi về làm con dâu thống lí Pá Tra, nhân vật Mị hiện lên với số phận bất hạnh và được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu tác phẩm với hình ảnh “ai ở xa về bao giờ cũng thấy một người con gái ngồi quay sợi bên cạnh một tảng đá trước cửa chuồng ngựa”. Vì cha mẹ không trả nổi món nợ vay thống lí để làm đám cưới lúc trẻ nên Mị đã bị A Sử bắt về và chấp nhận kiếp “làm dâu gạt nợ” cho nhà thống lí. Kể từ đó, cô trở thành một nô lệ bị đọa đày, bị hành hạ, bị tước đoạt hết mọi quyền sống và rồi, cô cam chịu cuộc sống đó như một cái xác vô hồn. Mị mất dần những ý niệm về thời gian và chỉ nhận thức thế giới qua các ô cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay nắng”, cô sống một cuộc sống không còn ý nghĩa.
Những tưởng hoàn cảnh nghiệt ngã đã tiêu diệt khát vọng về cuộc sống trong Mị. Nhưng không! Tình yêu, khát vọng cuộc sống chỉ bị lụi tắt chứ không hề lụi tàn. Mỗi khi vào buồng, Mị lại ngồi xuống trông ra cửa sổ. Chi tiết này cho thấy tâm hồn Mị vẫn luôn hướng ra bên ngoài và luôn tồn tại những khát khao dù là mỏng manh mơ hồ, chỉ cần có chất xúc tác là sẽ sẵn sàng trỗi dậy. Vì thế nên trong một đêm xuân tại Hồng Ngài, tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn Mị nhớ lại thời xa xưa. Quá khứ tươi đẹp của tuổi thanh xuân hiệ hữu chân thực, rõ nét qua tiếng sáo gọi bạn văng vẳng bên tai. Đó là tiếng sáo của tình yêu, của tuổi thanh xuân căng tràn sức sống và dường như lúc này, Mị không còn là cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa: “Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Nhưng thực tế, Mị vẫn còn ở nhà thống lí Pá Tra và chịu kiếp đày đọa, vì thế Mị ước có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay. Và hành động phản kháng lần thứ nhất đã diễn ra khi quyết định đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn thêm một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc và với tay lấy cái váy hoa. Nhưng rồi tất cả đã bị dập tắt khi A Sử nhìn thấy, đoán được ý định của Mị, hắn trói Mị đứng vào cột. Những hành động phi nhân tính của A Sử chỉ có thể giam cầm được thể xác của Mị chứ không thể trói buộc tâm hồn đang bay theo tiếng sáo của Mị.
Sức sống mãnh liệt trong tâm hồn nhân vật Mị đã được khẳng định một lần nữa thông qua hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cuộc sống đọa đày trong nhà thống lí Pá Tra sẽ vẫn tiếp diễn nếu như không có chuyện A Phủ- người từng đánh lại A Sử bị phạt vì làm mất một con bò. Trong những ngày đầu, Mị hoàn toàn thờ ơ và vô cảm trước việc A Phủ bị trói. Nhưng rồi sau đó, khi nhìn thấy giọt nước mắt lăn trên má A Phủ, Mị chợt nhớ đến đêm năm trước A Sử trói mình và Mị đã nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Mị xót xa cho A Phủ và trong cô diễn ra sự đấu tranh lo sợ mình sẽ bị trói thay. Nhưng rồi khát vọng sống tự do đã khiến Mị theo cởi trói và chạy theo A Phủ, cũng là giải thoát cho bản thân mình. Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt phải chống lại cả cường quyền và thần quyền.
Như vậy, bằng ngòi bút sắc sảo cùng tài năng miêu tả tâm lí nhân vật, tác giả Tô Hoài đã xây dựng hình tượng nhân vật Mị với những nét đẹp về ngoại hình lẫn tâm hồn, đặc biệt là sức sống tiềm tàng nhưng hết sức mãnh liệt. Qua nhân vật này, tác giả đã đặt ra những vấn đề về giá trị hiện thực thông qua bức tranh xã hội đè nén, trói buộc giam hãm con người. Từ đó tác giả bộc lộ thái độ đồng cảm, sẻ chia đối với những thân phận bị áp bức và đặt niềm tin vào sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người.
-
Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị hay nhất số 10
Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Thường thì khi người con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc (trong đói nghèo). Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng "chật cả chân vách đầu buồng Mị". Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và loài hoa ấy luôn mở rộng để đón nhận hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bị bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. "Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa". Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thống lí là trả cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.
Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, Mị thấm thía nỗi đau một cuộc đời bị cướp đoạt "đêm nào Mị cũng khóc". Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đối xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ "ngồi quay sợi gai cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi". Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tình cảnh mà cô phải chịu.
Trước khi về cửa nhà thống lí Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh...Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu chàng trai "Có biết nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị". Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa - điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị khó không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí. Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thông lí, sống trong nhà thống lí ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khi "ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của "căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay nắng".
"Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi". Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị tưởng như đã nguội tắt. Mị còn nhớ như in những lời hát tình tứ mà Mị đã nghe, đã hát, đã thổi sáo, thổi kèn lá ngày nào. Hiện tại bây giờ cô đang sống lại cảnh tượng ngày xưa. Cô đâu phải là con người "chết dần chết mòn" về nhân tính như Chí Phèo. Tiếng sáo bây giờ đã thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Rồi Mị uống rượu, men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị lên, tâm hồn Mị đã thoát xác, vượt ra ngoài cái ô cửa "mờ mờ trăng trắng kia". Khát vọng đi chơi bỗng bùng cháy trong tâm hồn Mị. Khái vọng ấy là cuộc khởi nghĩa nhân tính trong Mị. Bởi vì, từ ngày về làm dâu nhà thống lí "Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi". Vậy mà khi tiếng chó sủa xa xa, vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng". Sau bao nhiêu năm sống trong nhà thống lí, lần đầu tiên tiếng sáo của ai đó đến với Mị như một âm thanh của hiện tại. Rồi sau đó tiếng sáo làm sống lại bao rung động tâm linh của mùa xuân năm nào. Mới đầu tiếng sáo còn lấp ló nơi đầu núi, cuối cùng tiếng sáo đã thực sự hoá thân, nhập thân trong Mị "Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo". Góp phần làm nên cuộc "nổi loạn" nhân tính trong Mị có nhiều yếu tố; yếu tố ngoại lực, yếu tố nội lực. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất phải chăng là tiếng sáo mùa xuân. Ngày xuân, không có gì cuốn hút Mị bằng tiếng sáo, tiếng sáo đối với Mị mỗi lúc một mãnh liệt. Từ đầu là những âm thanh xa xôi, sau đó tiếng sáo trở thành lời mời gọi giúp Mị lãng quên quá khứ, sống vui vẻ với tương lai. "tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi".
Quá trình hồi sinh của Mị đã không được miêu tả một cách dễ dãi, hời hợt, tâm trạng nhân vật được nhìn nhận từ cái nhìn lưỡng phân. Con người hiện tại dường như đã chết, con người quá khứ đang dần dần từng bước được hồi sinh. Mị như cây hoa ban, hoa Đào Tây bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài thì có vẻ khẳng khiu, khô gầy, mỏng manh như đã chết nhưng bên trong sức sống vẫn âm ỉ, vẫn chờ thời để bừng sáng sắc xuân. Tết đến, Mị rất muốn đi chơi, nhưng A Sử không cho Mị đi, năm nào cũng vậy, A sử toàn đi một mình để Mị ở nhà như người xa lạ. Nhưng giai cấp phong kiến, gia đình nhà thống lí không thể cưỡng ép được Mị lâu, một con người sức sống đang còn cháy rực trong tâm hồn. Lúc này khi "tiếng sáo đang lửng lơ bay ngoài đường" gọi bạn đi chơi mà Mị đã phải ngồi cô độc trong xó cửa. Cô không thể dằn lòng được "Mị vùng dậy khêu đèn sáng, cuốn lại lóc, mặc váy hoa vắt ở vách" toan bước đi, tìm đến nơi đang lửng lơ bay tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha. Nhưng Mị vừa bước đi thì A sử lại kéo cô lại. A Sử không hề đánh đập, chửi rủa mà anh lầm lì như cái bóng từ từ trói cô vào cột nhà. Và bây giờ Mị mới bật khóc, khóc oan trái cho một kiếp người khao khát sống, muốn yêu mà đang ghì chặt vào một cuộc sống "không bằng con ngựa". Nhưng từ đây sức sống của một cô gái yêu đời lại trỗi dậy. Trong bóng tối, cô đang mơ màng đi theo tiếng sáo, tiếng sáo ấy đã có lần đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhưng rồi quá khứ chưa đi, hiện tại lại về. Giờ đây, Mị đang bị A Sử trói, dường như cô sống mà như đã chết. Đã chết phần hồn lẽ nào giờ đây cô lại để chết cả phần xác, Mị thấy xung quanh mình chỉ là bóng tối, không một tiếng động, cô "vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa".
Thời gian lại trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc : trong nhà thống lí vì để hổ bắt mất con bò... A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, và trở thành người ở gạt nợ của gia đình thống lí còn Mị làm dâu gạt nợ. A Phủ - Mị có cùng một cảnh ngộ, cùng là người đi ở gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Bởi vì tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù, với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Sự cô đơn ấy cô đã từng nếm thử nhưng bây giờ nó cay và đắng lạ. Khi chỉ biết ngồi một mình bên bếp lửa. Dường như sức sống trong tầm hồn cô đã cạn dần. Không, ngược lại, sức sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó để vỡ tung ra khi "Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng "nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được". Cũng như lần trước, một khi ý thức sống trỗi dậy, thì Mị lại nghĩ đến cái chết, nhưng lần này là một cái chết oan ức, vô lí của một người khác. Vì mê tín, vì đã là người của nhà thống lí, Mị cam chịu chết ở cái nhà này. Còn A Phủ việc gì phải chết, A Phủ phải được sống. Sau ý nghĩ ấy lòng thương người lớn hơn thương thân. Mị đã cam chịu chết thì cô sợ gì mà không cứu A Phủ. "Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cần biết đợi ngày mà rủ xuống ở đây thôi- Người kia việc gì phải chết".
Rõ ràng, Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô sẵn sàng chịu trói thay cho A Phủ. Nghĩ đến lúc rơi vào tình cảnh ấy Mị cũng không thấy sợ. Ngược lại lúc này cô bình tĩnh, can đảm hơn bao giờ hết. Đến giờ phút này thì việc rút dao cắt dây trói cho A Phủ là một việc phải làm tất nhiên có thể xảy ra. Đó là hành động tự bản thân Mị chứ không phải là sự phát triển của tình huống truyện do tác giả sắp đặt. A Phủ đã được giải thoát, lòng thương của Mĩ đã chiến thắng còn Mị vẫn đứng trong bóng tối. vẫn biết rằng Mị không sợ hình phạt của thống lí, không sợ phải chết thay cho A Phủ vì chết đối với Mị là một giải thoát, Mị vốn nghĩ thế. Nhưng thấy A Phủ đã chạy đi rồi, chạy đi đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống "Mị cũng vụt chạy ra" theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình. Hành động cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong tính cách của Mị, không một uy vũ nào có thể dập tắt nổi. Hành động chạy theo A Phủ là một hành động thật bất ngờ nhưng rất hợp lí. Lần này, thì sức sống mãnh liệt của Mị đã chiến thắng. Mị đúng là con người hơn con người thật. Đêm cuối cùng ở nhà thống lí Pá Tra, đã thành thật xin A Phủ cho đi theo, lời xin ấy cũng chính là ngọn lửa lâu ngày âm ỉ đang được bùng cháy.
Nhân vật Mị đã thu hút được người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy . Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống và luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín và luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí. Người đọc cảm giác ấy là nhờ cách kể truyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, "mờ mờ trăng trắng" soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí... ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bên cạnh lòng thương xót xâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.
Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mắt. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đọa đầy, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.