Top 14 Loài động vật có cách nuôi con độc đáo nhất
Tình mẫu tử thiêng liêng không chỉ hiện hữu ở con người, các loài động vật khác dù không sở hữu những cung bậc cảm xúc phức tạp như người nhưng chúng vẫn có ... xem thêm...tấm lòng yêu thương bao la của người mẹ dành cho những đứa con bé bỏng. Để nuôi con khôn lớn và bảo vệ chúng an toàn, các bà mẹ động vật đã có những biện pháp rất độc đáo. Cùng Toplist tìm hiểu những loài động vật có cách nuôi con độc đáo nhất.
-
Sự nuôi dưỡng chặt chẽ liên tục trong những năm đầu đời của một đứa trẻ là điều quan trọng để trở thành một người lớn đầy đủ chức năng. Đười ươi con dành hai năm đầu hoàn toàn gắn bó với mẹ, phụ thuộc vào mẹ cả về thức ăn và đi lại. Sau giai đoạn này, đười ươi mẹ dành khoảng 5 năm để dạy con tất cả những gì cần biết về cách tự sống - cách tìm thức ăn, xây tổ cho giấc ngủ và nhiều hơn thế nữa.
Đười ươi chủ yếu sống trên tán cây rừng mưa nhiệt đới, đặc biệt là các cánh rừng dầu đất thấp và rừng già thứ sinh. Chúng thường quần tụ quanh những khu rừng đầm lầy gần sông hơn là những nơi khô cằn xa bãi bồi. Mật độ đười ươi cũng giảm theo độ cao tầng cây. Chúng đôi khi lai vãng ở các đồng cỏ, ruộng, vườn, rừng thứ sinh non và các hồ nước nông.Đười ươi dành phần lớn thời gian trong ngày ăn uống, nghỉ ngơi và đi dạo. Chúng bắt đầu ngày mới bằng việc kiếm ăn khoảng 2-3 tiếng buổi sáng, rồi nghỉ ngơi vào giữa trưa, sau đó đi dạo vào cuối buổi chiều. Khi màn đêm buông xuống, chúng lên cây làm tổ để ngủ. Những loài dã thú tiềm năng săn được đười ươi bao gồm hổ, báo gấm và sói lửa
-
Để nuôi một con voi châu Phi, bạn chắc chắn cần một đàn. Những người khổng lồ hiền lành này sống trong một xã hội mẫu hệ, nơi mà sự gắn kết của các nhóm xã hội là rất quan trọng để tồn tại. Những con voi cái khác hỗ trợ voi mẹ mới sinh bằng cách nhấc con sơ sinh lên bằng chân, điều chỉnh tốc độ của đàn để giữ cho con non không bị tụt lại phía sau và thậm chí giúp cho con bú sữa mẹ. Trong suốt thời thơ ấu, voi con học được các kỹ năng sinh tồn quan trọng bằng cách quan sát và bắt chước cả mẹ lẫn bạn của chúng.
Vào mùa sinh sản, voi cái phát đi những tín hiệu đến voi đực. Ngay lập tức những con voi đực tập trung gần đàn voi và bắt đầu đánh nhau. Con voi chiến thắng sẽ được voi cái cọ xát thân vào thân voi đực, đó là tín hiệu đồng ý giao phối, sau đó mỗi con một ngả nhưng vẫn giữ liên lạc. Khi mang thai, voi cái rời đàn đẻ con và nuôi con một thời gian trước khi trở lại đàn. Trải qua quá trình mang thai tới 22 tháng (dài nhất trong số động vật có vú), voi cái sinh ra một chú voi con chỉ cao 1 m và nặng 100 kg. Voi con bú sữa mẹ trong suốt 5 năm đầu đời và trưởng thành sau 10-15 năm.
Voi sống thành đàn tại những xavan và đồng cỏ. Mỗi đàn gồm có một voi đầu đàn là con voi cái già nhất trong đàn, các con voi cái và con của chúng. Voi đực non sẽ rời đàn khi 10-15 tuổi. Chúng gia nhập các nhóm voi đực hoặc sống độc lập. Voi đực sau khi rời đàn vẫn giữ liên lạc với đàn gốc của chúng.
Tương xứng với kích thước của chúng, voi ăn mỗi ngày hết 225 kg cỏ, lá cây và uống hết 200 lít nước. 4 răng hàm to lớn của chúng giúp việc nghiền nát thức ăn dễ dàng hơn. Dạ dày voi không có lông thúc đẩy chúng phát triển kích thước khổng lồ để chứa đựng một chiếc bao tử vĩ đại. Voi dùng chiếc vòi của mình để vơ cỏ đưa lên miệng để ăn hoặc hút nước rồi phun vào miệng khi uống. Với những cành cây ở cao, voi dùng vòi bẻ cành hoặc dùng ngà húc đổ cây. Voi cũng có thể ăn quả trên ngọn cây bằng cách đứng dưới gốc và để các loại khỉ trên cây ném quả xuống. Người ta còn phát hiện những con voi ở vùng hồ Kariba ăn cả thực vật thủy sinh.
-
Trong thế giới hồng hạc, cả bố và mẹ đều chia sẻ nhiệm vụ nuôi con của mình. Bố và mẹ thay phiên nhau đưa một chất lỏng màu đỏ giống như sữa bổ dưỡng từ đường tiêu hóa của chúng vào miệng gà con đang đói cho đến khi chúng đủ lớn để ăn thức ăn đặc. Hơn nữa, bố mẹ hồng hạc làm điều này trong một thời gian khá dài, đảm bảo rằng hồng hạc con đủ khỏe để tiếp tục cho ăn.
Thời gian chim hồng hạc đạt đến độ trưởng thành và đủ khả năng sinh sản là 6 năm. Trước khi gây giống, chim hồng hạc thường thực hiện các nghi lễ đồng bộ. Người ta tin rằng chim hồng hạc là cặp “một vợ một chồng”. Một khi giao phối, chúng có sẽ ở lại với người bạn đời đó. Một nhóm hồng hạc sẽ giao phối cùng một lúc để tất cả chim con sẽ nở cùng một lúc. Các cặp sẽ làm tổ trên đống bùn và các con cái sẽ đẻ một quả trứng cùng một lúc.
Mỗi quả trứng lớn hơn một chút so với trứng gà lớn, dài từ 78 đến 90 mm và 115 đến 140 gram. Trứng sẽ mất từ 27 đến 31 ngày để nở và chim con mới nở sẽ chỉ nặng 73 đến 90 g. Chim hồng hạc con có màu xám hoặc trắng. Chúng sẽ chuyển sang màu hồng trong vài năm đầu đời. Chim hồng hạc sống 20 đến 30 năm trong tự nhiên hoặc lên đến 50 năm trong một sở thú.
-
Một lứa báo thường có từ hai đến sáu con. Trong suốt một năm rưỡi đầu đời của con, báo mẹ dành phần lớn thời gian để di chuyển cả gia đình từ hang này sang hang khác để bảo vệ con cái khỏi những kẻ săn mồi và dạy chúng săn mồi cùng nhau. Khi những con báo non đã sẵn sàng hành động, các con tạo thành một nhóm anh chị em săn cùng nhau trong sáu tháng mà không có mẹ.
Mỗi lứa, báo săn mẹ đẻ từ 3 đến 5 báo con, khi mới sinh, báo săn con có một mớ lông ở sau gáy. Mớ lông này giúp chúng ngụy trang trong các đám cỏ khi báo săn mẹ đi săn. Giai đoạn này, tất cả đều ở với mẹ trong vòng 1-2 năm đầu cho đến khi tự lập. Báo săn con thường quấn quýt lấy mẹ trong khoảng 3 tháng đầu, khi âu yếm các con, báo mẹ cũng rên hừ hừ giống như mèo. Sau khi trưởng thành một chút, chúng được thả tự do ra một chút để bắt đầu học kỹ năng săn bắt tự lập từ mẹ. Khoảng 6 tuần tuổi, báo săn con bắt đầu học săn mồi cùng với mẹ. Báo mẹ chỉ có thể bảo vệ đàn con và dạy cho chúng những kỹ năng săn mồi.
Báo mẹ sẽ chuẩn bị một số điều kiện để giúp báo con bước vào thế giới tự nhiên thật vững vàng. Những chú báo con đã 5 tuần tuổi nhưng vẫn còn bú vú mẹ. Sau đó, chúng sẽ được thử qua các bữa ăn có thịt. Trong những tháng tiếp theo chúng sẽ được học cách nhai và săn mồi. Mục tiêu đầu tiên của chúng là heo rừng con. Lúc này, báo con đã thực sự trở thành loài ăn thịt rất đáng sợ. Chúng còn phải học cách bảo vệ thành quả của mình trước những đối thủ đầy tiềm năng. Khi tóm bắt được con mồi, báo mẹ phải đảm bảo là nó vẫn còn sống để thú con học hỏi toàn bộ quá trình giết chết con mồi như thế nào. Khi thú con học cách xé con mồi ra thành từng miếng nhỏ thì báo mẹ luôn cảnh giới xung quanh để đảm bảo cho con mình luôn được an toàn. Những chú báo con luôn thể hiện bản chất của những kẻ hiếu chiến. Bản lĩnh sẽ quyết định con nào trở thành kẻ thống trị trong tương lai. Theo bản năng, chúng biết rằng phải cắn thật sâu vào cơ thể heo rừng mới có thể xé được thịt.
-
Cá sấu sông Nile được biết đến là loài động vật chết chóc, nhưng chúng cũng sử dụng hàm răng sắc nhọn, bộ hàm mạnh mẽ và bản năng sát thủ để bảo vệ gia đình của mình. Không giống như hầu hết các loài bò sát, sau khi đẻ trứng và bỏ chạy, cá sấu sông Nile, cả đực và cái, quyết liệt bảo vệ và chăm sóc những đứa con tương lai của chúng. Những loài bò sát dũng mãnh này thậm chí sẽ giữ ấm và bảo vệ cá sấu sơ sinh trong miệng nếu chúng cần.
Trong mùa sinh sản, con đực hấp dẫn con cái bằng cách gầm rống, đập mõm của chúng xuống nước, phun nước ra từ mũi, và phát ra đủ mọi thứ tiếng động. Các con đực to lớn có xu hướng thắng thế hơn. Khi con cái bị hấp dẫn thì cặp cá sấu này cọ xát mặt bên dưới của quai hàm của chúng với nhau. Con cái đẻ trứng khoảng 2 tháng sau khi giao phối.
Việc làm ổ đẻ diễn ra trong tháng 11 hoặc tháng 12, là mùa khô ở miền bắc châu Phi, và là mùa mưa ở miền nam. Các chỗ ưa thích làm ổ là các bờ cát, bờ sông hay các chỗ khô ráo. Con cái đào lỗ cách bờ sông vài mét và sâu khoảng 50 cm (20 inch) và đẻ từ 25 đến 80 trứng. Số lượng trứng dao động theo từng quần thể, nhưng trung bình khoảng 50 quả. Các ổ trứng cá sấu có thể rất gần nhau.
Khi đẻ trứng xong, con cái phủ lấp trứng bằng cát và bảo vệ chúng khoảng 3 tháng của thời kỳ ấp trứng. Con đực thường nằm gần đó và cả hai sẵn sàng tấn công bất kể người hay động vật nào đến gần trứng của chúng. Con cái chỉ rời ổ khi chúng cần điều chỉnh thân nhiệt bằng cách ngâm mình rất nhanh xuống nước hay tìm chỗ có bóng râm. Mặc dù các ổ trứng được cha mẹ chúng bảo vệ kỹ lưỡng nhưng chúng vẫn bị con người hay các loài thằn lằn (các loài bò sát thuộc chi Varanus) hay các động vật khác lấy đi khi con mẹ tạm thời vắng mặt.
Trước khi chào đời con non bao giờ cũng phát ra các tiếng kêu nhỏ, đây là tín hiệu để con mẹ phá bỏ ổ. Cả hai con mẹ và cha có thể đưa trứng vào miệng và lăn chúng giữa lưỡi và vòm miệng trên của chúng để giúp con sơ sinh phá vỡ lớp vỏ trứng để chui ra. Sau khi chúng sinh ra, con mẹ sẽ dẫn chúng xuống nước hoặc đem chúng xuống trong miệng của mình.
-
Sau khi chim cánh cụt hoàng đế cái đẻ trứng, chúng để nó cho chim cánh cụt đực chăm sóc. Chim bố sẽ ngồi xuống và giữ ấm cho chim con trong khi chim mẹ đi 50 dặm tới đại dương. Tuy nhiên, đây không phải là một kỳ nghỉ ở bãi biển: cánh cụt mẹ ở đây để đánh bắt một số cá, sau đó đi bộ một quãng đường dài trở về gia đình nhỏ của mình để cho những đứa con yêu quý ăn mồi.
Giống như tất cả các loài chim cánh cụt khác, chim cánh cụt hoàng đế có một cơ thể phù hợp cho việc bơi: đôi cánh dẹt, chân chèo phẳng. Lưỡi được trang bị phía sau lông tơ để ngăn chặn con mồi thoát ra ngoài khi bị bắt. Con lớn có lông màu đen phía sau, trên đầu, cằm, cổ, lưng, phần lưng của chân chèo, và đuôi. Những phần dưới của cánh và bụng có màu trắng, màu vàng nhạt trên ngực, còn tai màu vàng tươi. Khi chúng ở tuổi thành niên, tai, cằm và họng có màu trắng, riêng cái mỏ màu đen. Chim cánh cụt con thường được phủ một lớp lông màu xám bạc và có đầu màu đen và trắng. Một con non với cả bộ lông màu trắng đã được tìm thấy năm 2001. Nó đã bị coi là bạch tạng nếu như không có đôi mắt màu hồng. Con non cân nặng khoảng 315 g (11 oz) sau khi nở, và đủ lông khi trọng lượng của chúng bằng 50% trọng lượng con lớn.
Bộ lông màu đen của chim cánh cụt hoàng đế chuyển dần sang màu nâu từ tháng 11 cho tới tháng 2, trước đợt rụng lông hàng năm từ tháng 1 đến tháng 2. Việc rụng lông của loài này nhanh hơn một số loài chim khác, chỉ tới 34 ngày. Bộ lông của chim cánh cụt hoàng đế sẽ mọc lên từ da sau khi chúng đã phát triển được một phần ba tổng chiều dài của chúng, và trước khi bị rụng mất lông cũ, để giúp giảm cách nhiệt và tăng tỏa nhiệt. Lông mới sau đó đã đẩy đi những cái lông cũ trước khi hoàn thành sự sinh trưởng của chúng.
-
Chim cu mẹ dường như biết rất rõ rằng chúng không hoàn thành nhiệm vụ khó khăn trong việc nuôi dạy một chú chim con, vì vậy chúng bí mật đẻ trứng vào tổ của những con chim khác, thường nhỏ hơn và được cho là cả tin hơn. Quả trứng nở ra, và chim cu gáy ném những con chim con và trứng khác đi. Bây giờ con chim cu con ở một mình trong tổ, và tất cả thức ăn và sự quan tâm từ "cha mẹ nuôi" của nó dành cho nó cho đến khi nó biết bay.
Cookuu có tên khoa học là ( cuculus canorus ) Chúng là loài chim di cư vào mùa hè và sống phổ biến ở châu Âu và châu Á, vào mùa đông chúng sinh sống khá nhiều ở châu Phi. Chim cuckoo là loài sống ký sinh có nghĩa là nó đẻ trứng trong tổ các loài chim khác, mặc dù trứng của nó lớn hơn trứng các loài chim bị đẻ nhờ, nhưng nó biết chọn những tổ chim có trứng gần giống với màu sắc và hoa văn với trứng của nó. Chim cuckoo có kích thước chiều dài cơ thể khoảng 32-34 cm tính từ đầu đến đuôi, riêng cái đuôi có chiều dài từ 13-15cm, nó có sải cánh dài từ 55-60cm, Chim trống nặng khoảng 130 gram, trong khi chim mái có thân hình nhỏ hơn một chút, nặng khoảng 110gram.
Chim cuckoo bố mẹ còn có khả năng điều chỉnh màu và hoa văn trên trứng của mình sao cho giống nhất với trứng của vật chủ, một số ý kiên nói rằng đó là do DNA di truyền mà chỉ chim cuckoo mái mới có thể thừa hưởng được điều này. Chim cuckoo non sẽ nở ra sau 11-13 ngày ấp, sau khi nở lúc này nó còn chưa mở mắt và sẽ làm một việc mà ít ai ngờ tới đó là đẩy tất cả trứng ra khỏi tổ. Thậm chí ngay cả khi chim non của chim vật chủ có nở ra thì cũng chịu chung số phận là bị đẩy ra khỏi tổ để độc chiếm nguồn thức ăn từ chim bố mẹ, nó sẽ dùng lưng và sức mạnh của đôi chân để hất trứng ra khỏi thành tổ rơi xuống đất.
-
Ở cá ngựa, việc sinh con không phân biệt giới tính. Cá ngựa cái đẻ trứng vào một chiếc túi đặc biệt của con đực, rồi bơi đi. Con đực thụ tinh cho trứng và mang chúng trong khoảng 20 ngày cho đến khi đến thời điểm sinh nở, và giải phóng hàng trăm con cá ngựa nhỏ ra khỏi túi.
Cá ngựa sinh con theo một cách kỳ lạ: con đực "mang thai". Theo báo cáo của Công trình nghiên cứu về cá ngựa thì cá cái đưa trứng vào túi ấp của cá đực làm cho con đực có vẻ như đang mang thai. Những nghiên cứu mới đây cho thấy rằng cá đực truyền tinh dịch của chúng ra xung quanh chứ không đưa trực tiếp vào túi ấp. Thời gian mang thai từ 2-3 tuần. Trứng cá ngựa nở khi nào phụ thuộc vào bố mẹ của chúng. Một số trải qua thời gian phát triển chung với những phiêu sinh vật biển. Đôi khi những con cá ngựa đực có thể ăn một số con của nó trước khi chúng được tự do. Những loài cá ngựa khác ngay lập tức bắt đầu cuộc sống dưới đáy biển.
Thông thường cá ngựa sống thành cặp, nhưng có một số loài sống thành bầy đàn. Khi sống thành cặp, cá ngựa thường giao phối vào sáng sớm hoặc đôi khi vào chập tối để củng cố thêm mối quan hệ của chúng. Phần thời gian còn lại chúng dành cho việc tìm thức ăn. Cá ngựa có đôi mắt cao di động có khả năng quan sát kẻ thù và mồi mà không cần di chuyển. Giống như loài rồng biển, cá ngựa cũng có một cái vòi dài để mút con mồi. Vây cá ngựa nhỏ thích hợp luồn lách qua những đám tảo dày. Ngoài ra, nó còn có một cái đuôi dài và có khả năng quấn quanh tảo biển để giữ mình không bị dòng nước cuốn đi.
-
Sói xám thường gắn bó suốt đời và cả bố và mẹ đều tận tâm bảo vệ và nuôi dạy đàn con của chúng. Các con sói thường giúp đỡ nhau chăm sóc sói con, nhất là con của con đầu đàn. Gia đình sói là một gia đình khá cổ điển: sói bố đi săn, sói mẹ ở trong hang cùng đàn con, chăm sóc chúng, cho chúng ăn và dạy chúng. Lớn lên, đàn con bắt đầu đi kiếm ăn cùng đàn. Trong khoảng một năm, chúng học được sự khôn ngoan của cách săn mồi, thứ bậc và cách cư xử phù hợp, sau đó chúng sẽ ở lại và trở thành thành viên của đàn, hoặc đi một cuộc hành trình riêng biệt.
Sói xám là một trong những loài động vật được biết đến nhiều nhất và được nghiên cứu nhiều nhất trên thế giới, với nhiều cuốn sách được viết về chúng hơn bất kỳ loài động vật hoang dã nào khác. Chúng có một lịch sử lâu dài về sự liên kết với con người, bị coi thường và bị săn đuổi trong hầu hết các cộng đồng loài người vì các cuộc tấn công của chúng vào gia súc, trong khi ngược lại được tôn trọng trong một số xã hội nông dân và hái lượm.
Mặc dù nỗi sợ hãi của sói là phổ biến trong xã hội loài người, phần lớn các cuộc tấn công người đã được ghi lại và quy cho các loài sói bị bệnh dại. Những con sói không dại đã từng được biết là tấn công và giết người, chủ yếu là trẻ em, nhưng điều này rất là hiếm, vì sói rất khó phát hiện trong tự nhiên do chúng chủ động tránh xa con người, và chúng đã phát triển một nỗi sợ hãi con người khi đã nhiều lần bị săn lùng bởi thợ săn và người chăn cừu.
-
Những con bạch tuộc Thái Bình Dương cái sống tới 5 năm nhưng chỉ giao phối một lần cho đến cuối đời. Sau khi thụ tinh, con đực bơi đi và chết trong vài tháng sau đó. Mặt khác, con cái tìm thấy một hang động hoặc khe hở ẩn và đẻ tới 100.000 trứng ở đó cùng một lúc.
Sau đó, bạch tuộc mẹ sẽ dành từ sáu đến mười tháng để dọn dẹp, canh giữ và chăm sóc những quả trứng quý giá của mình. Bạch tuộc mẹ thậm chí sẽ không trốn ra ngoài để ăn trong khi chăm sóc con cái của mình. Kết quả là, bạch tuộc mẹ gần như luôn luôn đói, nhưng vẫn phải mang tất cả những quả trứng từ nơi trú ẩn của mình ra ánh sáng, sau đó, có thể chết bên cạnh những quả trứng của mình...
Mỗi lứa đẻ, bạch tuộc mẹ cho ra 50.000 quả trứng, phải mất đến 40 ngày trứng mới nở thành con, một bộ phận có tên là Siphons vốn dùng để chỉ đạo việc di chuyển dưới nước sẽ giúp số trứng này được oxi hóa, từ đó tránh được số vi khuẩn gây hại. Vì vậy trong suốt thời gian đó, bạch tuộc mẹ không thể bỏ trứng đi săn mồi suốt hơn tháng trời, điều này làm bạch tuộc mẹ đói rã rời. Vì lũ con, bạch tuộc mẹ phải hi sinh một phần thân thể mình đúng theo nghĩa thực tế: nó sẽ ăn… một cái tay vòi của mình để chống chọi với cái đói, trong khi chờ đợi lứa trứng nở.
Cá biệt có một số trường hợp được ghi nhận như tại vịnh Monterey, California. Bạch tuộc mẹ đã trông chừng số trứng trong khoảng thời gian dài nhất từng được ghi nhận. Khoảng thời gian trứng nở hết, bạch tuộc sử dụng hết sức mạnh của mình để thổi chúng ra ngoài biển. Và sau đó, bạch tuộc mẹ chết đi vì quá lao lực.
-
Thế giới các loài nhện có tới trên 100,000 thành viên bao gồm cả nhiều loài thuộc Lớp hình nhện khác vì vậy mức độ chăm sóc các con non cũng không giống nhau. Loài nhện Nam Mỹ có tên khoa học Mesabolivar Aurantiacus là một người mẹ tuyệt vời khi chúng giữ túi trứng liên tục trong hàm cho tới khi chúng nở.
Chẳng có con vật nào muốn gây hấn với một con nhện sói cái vừa đẻ trứng. Bà mẹ này vô cùng hung hăng và sẽ chiến đấu quyết liệt nếu có kẻ nào dám động vào túi trứng đang gắn chặt vào bộ phận nhả tơ của nó. Khi các quả trứng nở, hàng trăm con nhện con sẽ trèo lên lưng của mẹ chúng. Nhện mẹ sẽ phải đưa chúng đi cùng suốt nhiều ngày trước khi các con phát triển hoàn thiện và có thể tự mình di chuyển.
Chăm sóc và cung cấp thức ăn cho các con non trong giai đoạn đầu. Khi nhện con nở ra, chúng sẽ được mẹ bảo vệ trên lưng cho tới khi con non lột xác và bước đi vững vàng trên 4 cặp chân của chúng.
Nhện Nam Phi có tám mắt, bố trí theo nhiều hình thức khác nhau và hiện tượng này thường được sử dụng trong ngành phân loại các nòi giống khác nhau. Loài nhện Haplogynae có 6 mắt, một số có tám mắt (Ví dụ loài Plectreuridae), hoặc bốn mắt (Ví dụ Tetrablemma) và có loài chỉ có hai mắt (loài Caponiidae). Ở một số nhện, chỉ có hai mắt phát triển, còn các mắt khác rất yếu. Một số khác, như loài nhện sống trong hang tối, không có mắt. Giống nhện săn mồi, như loài nhện nhảy hay nhện sói thì mắt rất tinh tường, có loài còn thấy được màu sắc. -
Bọ cạp độc là nguồn thức ăn chính của Meerkat ở miền nam châu Phi nhưng những con non cần một thời gian theo dõi cá thể trưởng thành xử lý bọ cạp độc trước khi ăn chúng. Đó là lý do vì sao các bà mẹ Meerkat cùng với các thành viên khác trong đàn sẽ kiên nhẫn hướng dẫn, kèm cặp một cách cẩn thận khi xử lý đám chân đốt kia.
Meerkat cũng trông những con non trong nhóm. Những con cái chưa bao giờ sinh sản thường chăm sóc những cặp thừa kế đầu đàn còn nhỏ, trong khi con cái đầu đàn không ở chung với phần còn lại của nhóm. Nó cũng bảo vệ con non khỏi những hiểm họa do chúng tự gây ra khi chưa đủ bản năng. Lúc có cảnh báo nguy hiểm, con cái chuẩn bị an toàn để bảo vệ chúng, nếu chưa thể rút lui vào hang, nó gom các con non lại với nhau và nằm che chắn phần đầu cho chúng. Cụ thể là những con Meerkat trưởng thành sẽ đập “toè mỏ” lũ bọ cạp, sau đó vô hiệu hoá đuôi chứa túi độc kèm vòi chích. Đưa con mồi cho những con non để luyện tập.
Meerkat tìm thức ăn theo nhóm với một "lính gác" cảnh giác động vật ăn thịt trong khi những con khác đang tìm kiếm thức ăn. Nhiệm vụ canh gác thường là dài hơn một giờ. Một Meerkat có thể đào lỗ với số lượng cát bằng khối lượng của nó chỉ trong vài giây. Meerkat con bắt đầu tìm kiếm thức ăn khi chúng khoảng trên 1 tháng tuổi, học kỹ năng săn mồi từ các cựu thành viên trong nhóm, đó như là những gia sư của chúng. Meerkat "lính gác" đứng yên quan sát khi phạm vi kiếm mồi là an toàn. Nếu đàn Meerkat đang gặp nguy hiểm, nó la hét ầm ĩ để báo động cho cả đàn tìm nơi trú ẩn.
-
Chuột túi thường sống ở đồng cỏ, sa mạc và có khả nặng chịu nhiệt tốt. Loài vật này cũng rất hiền lành, ngoan ngoãn, không chủ động tấn công loài khác bao giờ. Một điều khiến loài chuột túi trở nên khác biệt với đại đa số loài động vật khác là quá trình sinh và nuôi con. Chuột túi con sẽ được nuôi trong bụng mẹ.
Chuột túi con chào đời khi chỉ 4-5 tuần tuổi, vì vậy, chúng chỉ nhỏ xíu bằng hạt đậu đen, có khi chỉ bằng hạt gạo, không có lông cũng chẳng có hình thù gì. Chính vì vậy, chuột túi mẹ phải có cách chăm sóc con cẩn thận và tỉ mỉ hơn những loài khác. Trong khi đó, mẹ của chúng lại có kích thước to lớn gấp nhiều lần, chưa kể còn khá vụng về nên nếu chuột túi con mà có rơi ra ngoài, chuột mẹ không thể nhặt con lên được và phải bỏ rơi chúng.
Chưa kể, con non được sinh ra trước khi cơ thể kịp phát triển đầy đủ nên vô cùng yếu ớt, và gần như không có khả năng tồn tại được ở môi trường bên ngoài. Những bộ phận duy nhất đã hoàn thiện là các chi. Điều này giúp ích cho kangaroo con rất nhiều bởi ngay sau khi chào đời chúng sẽ phải bò vào trong chiếc túi của mẹ, và dành trọn những tháng tiếp theo ở nơi ấm áp này.
Trong túi mẹ, thú con nhận sữa từ mẹ, ăn, ngủ và bài tiết ngay trong chiếc túi này. Những chất thải có thể được lớp lót trong túi hấp thụ luôn hoặc được kangaroo mẹ dọn đi một cách khéo léo bằng miệng. Sau 4 tháng, các bộ phận của con non sẽ phát triển đây đủ. Khi ấy, chúng có thể ló đầu ra ngoài để ngắm thế giới. Nhưng phải cần đến 20 tháng (với con cái) và 2 – 4 năm (với con đực), kangaroo con mới thực sự đủ lớn để ra khỏi chiếc túi của mẹ.
-
Chim hồng hoàng bướu đỏ sống ở đảo Sulawesi của Indonesia. Chúng làm tổ và đẻ trứng trong các hốc trên thân cây. Sau khi đẻ, chim mẹ sẽ giam mình trong tổ ấp trứng suốt 2 tháng trời ròng rã, không hề bỏ ra ngoài để kiếm ăn dù rất đói. Trong suốt thời gian đó, chim hồng hoàng bướu đỏ dùng phân bịt lối vào tổ để ngăn chặn kẻ thù.
Nhưng trứng chim hồng hoàng lại là món khoái khẩu của loài kỳ đà. Để bảo vệ đàn con sắp chào đời, chim mẹ dùng phân của nó trát lên miệng hốc để làm hẹp lối vào, loài kỳ đà to xác sẽ không chui vào tổ được. Một phần nữa là mùi hôi rất khó chịu của phân chim sẽ làm kỳ đà và các loài khác tránh xa cái tổ.
Hồng hoàng mái làm tổ trong lỗ rỗng trên thân các cây lớn và miệng tổ được bịt bằng một lớp trát bằng phân. Nó tự giam mình trong tổ cho tới khi chim non phát triển tương đối, dựa trên thức ăn cho chim trống đem về thông qua khe nứt trong lớp trát. Trong thời kỳ này chim mái trải qua thời kỳ rụng lông hoàn toàn. Mỗi lứa đẻ gồm 01 tới 02 trứng và được ấp trong 38 – 40 ngày. Hồng hoàng tạo thành các cặp một vợ một chồng nhưng sống thành bầy từ 2 – 40 cá thể.
Hồng hoàng mái nhỏ hơn và có mắt màu xanh lam thay vì mắt đỏ. Hồng hoàng trống rỉa lông để bôi chất nhờn màu vàng vào lông cánh sơ cấp cũng như mỏ để làm cho chúng có màu vàng tươi