Top 10 Tác phẩm nổi tiếng nhất ở bảo tàng Louvre, Pháp
Louvre là viện bảo tàng nghệ thuật có lịch sử nằm tại Quận 1, thành phố Paris, nước Pháp. Là một cung điện đồ sộ chứa khoảng 35,000 tác phẩm. ban đầu của ... xem thêm...Louvre chủ yếu từ bộ sưu tập hoàng gia và tài sản của giáo hội bị tịch thu trong thời kỳ cách mạng. Ngày nay, viện bảo tàng này là nơi trưng bày các hiện vật về những nền văn minh cổ, nghệ thuật Hồi giáo và nghệ thuật châu Âu từ thế kỷ 13 cho tới giữa thế kỷ 19. Dưới đây sẽ là một số tác phẩm tiêu biểu được khách du lịch quan tâm nhiều nhất.
-
Tượng thần Vệ nữ thành Milo là một pho tượng bán khỏa thân cụt hai tay, được tìm thấy vào năm 1820 ở đảo Milos (Hy Lạp) nên được đặt tên là Milo. Pho tượng được cho là có niên đại vào khoảng 130 TCN, khắc họa vị nữ thần tình yêu và sắc đẹp Hy Lạp.
Tượng được tạp bằng đá cẩm thạch trắng, cao khoảng 2,04 mét, thể hiện cân đối, tràn đầy sức sống của nữ thần với lớp vải quấn mềm mại rủ xuống từ ngang hông. Việc thiếu đôi tay là đặc điểm nổi bật nhất của bức tượng Vệ nữ Milo. Đã có rất nhiều nhà điêu khắc thử tạo những phương án khác nhau để hoàn thiện đôi tay cho nữ thần nhưng vẫn chưa có được phương án hợp lý cho bức tượng bởi vậy cho đến nay bức tượng vẫn ở trong trạng thái như ban đầu. Là một di sản của nền văn minh Hy Lạp cổ đại, tượng thần nữ Milo được xem là một trong những tác phẩm điêu khắc cổ điển đẹp nhất thế giới. Dù niên đại này khá muộn, nhưng nó tổng hợp các phong cách điêu khắc cổ điển Hy Lạp. Hiện vẫn chưa biết chính xác bức tượng này, theo nguyên bản, thể hiện khía cạnh nào của thần Vệ nữ. Thông thường mọi người cho rằng tượng khắc hoạ Venus Victrix đang giữ một quả táo vàng do Paris thành Troia đưa.Đây cũng có thể là nguồn gốc cách đặt tên kiểu chơi chữ hòn đảo Milos, có nghĩa là quả táo trong tiếng Hy Lạp. Một mảnh của cánh tay với quả táo đã được tìm thấy gần bức tượng và được cho là cánh tay nguyên bản của tượng. Sau khi bức tượng được tìm thấy, nhiều người đã tìm cách khôi phục dáng bộ nguyên thủy, dù vậy vẫn chưa mang lại thành công.
-
Mona Lisa, chân dung Lisa Gherardini, vợ của phong del Giocondo là một bức chân dung thế kỷ 16 được vẽ bằng chất liệu sơn dầu trên một tấm gỗ dương tại Florence bởi Leonardo da Vinci trong thời kì phục hưng Italia. Tác phẩm thuộc sở hữu của chính phủ Pháp và hiện được trưng bày tại bảo tàng Louvre ở Paris, với tên gọi chân dung Lisa Gherardini.
Bức tranh là một bức chân dung nửa người và thể hiện một phụ nữ có những nét thể hiện trên khuôn mặt thường được miêu tả là bí ẩn. Sự mơ hồ trong nét thể hiện của người mẫu, sự lạ thường của thành phần nửa khuôn mặt, và sự huyền ảo của các kiểu mẫu hình thức và không khí hư ảo là những tính chất mới lạ góp phần vào sức mê hoặc của bức tranh. Có lẽ nó là bức tranh nổi tiếng nhất từng bị đánh cắp và được thu hồi về bảo tàng Louvre. Ít tác phẩm nghệ thuật khác từng là chủ đề của nhiều sự chăm sóc kỹ lưỡng, nghiên cứu, thần thoại hoá và bắt chước tới như vậy. Một sự nghiên cứu và vẽ thử bằng chì than và graphite về Mona Lisa được cho là của Leonardo có trong bộ sưu tập Hyde, tại Glens Falls, NY. Bức tranh Mona Lisa đã tồn tại trong hơn 500 năm, và một hội đồng quốc tế nhóm họp năm 1952 đã lưu ý rằng bức tranh đang ở một tình trạng bảo tồn tốt. Điều này một phần nhờ kết quả của nhiều biện pháp bảo tồn đã được áp dụng với bức tranh. Một cuộc phân tích chi tiết năm 1933 bởi Madame de Gironde cho thấy những nhà bảo tồn ở giai đoạn đầu đã hành động với sự cẩn trọng lớn.
Tuy thế, việc sử dụng véc ni được làm cho bức tranh đã làm nó tối đi thậm chí ngay từ cuối thế kỷ 16, và một cuộc vệ sinh và tái phủ véc ni quá tay năm 1809 đã làm mất một số thành phần trên cùng của lớp sơn, khiến một số phần sơn trên mặt nhân vật bị tẩy mất. Dù có những cuộc xử lý như vậy, Mona Lisa đã được bảo tồn tốt trong suốt lịch sử, và mặc dù sự cong vênh của tấm panel khiến những người quản lý có một số lo lắng, đội bảo tồn năm 2004 - 05 vẫn lạc quan về tương lai của tác phẩm.
-
La Grande Odalisque là một bức tranh sơn dầu năm 1814 bởi Jean Auguste Dominique Ingres, miêu tả một Odalisque, hay một vị cung phi. Người đương thời cho rằng, Ingres đã theo lối phong cách tân cổ điển và cho thấy mọi sự thay đổi với chủ nghĩa lãng mạn đang lan tràn hiện nay.
La Grande Odalisque đã gặp phải nhiều chỉ trích trong lần ra mắt đầu tiên. Những chi tiết như thon dài đã được lưu ý, và thiếu tính hiện thực trong giải phẫu. Bức tranh hiện được đặt trong bảo tàng Louvre, Paris được ủy quyền bởi Napoléon em gái của nữ hoàng Caroline Murat của Naples, và hoàn thành vào năm 1814. Ingres đã vẽ các tác phẩm như Dresden Venus bởi Giorgione và Titian 'S Venus of Urbino là nguồn cảm hứng cho nhân vật khỏa thân đang ngả lưng của mình, mặc dù tư thế thực sự của một nhân vật đang ngả lưng nhìn qua vai cô ấy được vẽ trực tiếp từ những năm 1800 miêu tả một người vợ lẽ trong tư thế uể oải khi nhìn từ phía sau với tỷ lệ méo mó. Cái đầu nhỏ, tay chân thon dài và cách phối màu lạnh đều cho thấy ảnh hưởng từ người điều khiển. Các nhà phê bình xem Ingres như một kẻ nổi loạn chống lại phong cách hiện đại về hình thức và nội dung. Khi bức tranh lần đầu tiên được hiển thị trong Salon năm 1819, một nhà phê bình nhận xét rằng tác phẩm không có xương cũng không có cơ, không có máu, cũng không có sự sống, cũng không phải là sự nhẹ nhõm, thực sự không có gì là giả mạo.Điều này lặp lại quan điểm chung rằng Ingres đã coi thường chủ nghĩa hiện thực giải phẫu. Ingres thay vào đó ưu tiên những đường kẻ dài để truyền tải độ cong và gợi cảm, cũng như ánh sáng dồi dào, đều để giảm âm lượng. Ingres tiếp tục bị chỉ trích vì công việc của mình cho đến giữa những năm 1820.
-
Tượng thần chiến thắng Samothrace là một tác phẩm điêu khắc Hy Lạp cổ bằng đá cẩm thạch, mô tả nữ thần Nike, vị thần tượng trưng cho chiến thắng. Bức tượng được nhà ngoại giao người Pháp Charles Champoiseau phát hiện năm 1863, tại đảo Samothrace, phía đông Hy Lạp, trong tình trạng bị vỡ thành nhiều mảnh.
Các mảnh vỡ được gửi về Paris, ghép lại và trưng bày ở bảo tàng Louvre. Mặc dù không còn nguyên vẹn, ngày nay, tượng thần chiến thắng Samothrace vẫn được xem như một trong những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng bậc nhất.
Tượng nữ thần chiến thắng tạc từ đá cẩm thạch, cao hơn 3m nằm ngay ở khu vực đầu cầu thang Daru trong bảo tàng Louvre (Paris, Pháp). Tác phẩm khắc họa thân hình một người phụ nữ không đầu, có đôi cánh gắn ở lưng. Tượng này đặt trên một khối đá lớn tượng trưng cho mũi con tàu đến từ đảo Rhodes. Bức tượng gây ấn tượng bởi kỹ năng điêu khắc công phu, tư thế mềm mại và bộ y phục sống động. Tuy nhiên, cũng từ hai phần còn sót lại này, Champoiseau đã xác định được kiệt tác này mô phỏng nữ thần Nike, vị thần chiến thắng.Các mảnh vỡ ngay lập tức được gửi về Paris. Sau một thời gian được ghép lại chính xác đến từng chi tiết, tượng được trưng bày tại bảo tàng nổi tiếng nhất nước Pháp - Louvre ở thủ đô Paris. Các chuyên gia giữ nguyên các thành phần, không chế tác thêm phần đầu đã mất.
-
Cái chết của Sardanapalus dựa trên câu chuyện về Sardanapalus, vị vua cuối cùng của Assyria, từ thư viện lịch sử của Diodorus Siculus, nhà sử học Hy Lạp cổ đại, và là một tác phẩm của thời đại chủ nghĩa lãng mạn. Bức tranh này sử dụng màu sắc phong phú, sống động và ấm áp, và nét vẽ trải rộng. Nó được lấy cảm hứng từ vở kịch Sardanapalus (1821) của Lord Byron và lần lượt lấy cảm hứng từ một cantata của Hector Berlioz, Sardanapale (1830), và cả vở opera của Franz Liszt, Sardanapale.
Bức tranh Death of Sardanapalus của Eugène Delacroix được vẽ vào năm 1827 lấy đề tài từ vở kịch thơ Sarnadapalus của Byron. Trọng tâm chính của bức tranh The Death of Sardanapalus là một chiếc giường lớn phủ vải đỏ phong phú. Trên đó là một người đàn ông đang quan sát một khung cảnh hỗn loạn bằng ánh mắt vô tư. Anh ta mặc quần áo vải trắng và vàng xa hoa quanh cổ và đầu. Một người phụ nữ nằm chết dưới chân anh, nằm nghiêng ở nửa phía dưới của chiếc giường lớn. Cô là một trong năm hoặc sáu người trong bối cảnh, tất cả đều ở trong các sắc thái khác nhau, và tất cả trong các tư thế của sự chết chóc bởi bàn tay của nửa tá người đàn ông trong cảnh. Có một số người bị đâm bằng dao và một người đàn ông đang chết vì vết thương tự gây ra từ thanh kiếm, và một người đàn ông ở phía trước bên trái đang cố gắng giết một con ngựa được trang trí phức tạp. Một chàng trai trẻ ở khuỷu tay phải của nhà vua đang đứng đằng sau một chiếc bàn mà bên trên có một bình rượu vàng tinh xảo và một chiếc cốc. Có những cái đầu voi vàng ở chân giường, cũng như nhiều đồ trang sức có giá trị khác nhau nằm rải rác giữa đống tàn sát. Trong bối cảnh của bức tranh, một số yếu tố kiến trúc có thể nhìn thấy nhưng khó có thể nhận ra.
Delacroix đã sử dụng nét vẽ của họa sĩ trong bức tranh này, cho phép cảm giác chuyển động mạnh mẽ trong tác phẩm. Cảnh này hỗn loạn và dữ dội, được thể hiện bởi phong trào, vũ khí và màu sắc được sử dụng. Màu đỏ của chiếc giường nổi bật trên nền tối có phần bị che khuất. Màu trắng của áo choàng của Sardanapalus, những đường nét màu kem của tay chân của những người phụ nữ đang hấp hối và những vật thể bằng vàng lấp lánh trong toàn cảnh kéo mắt người xem nhanh chóng tập trung vào bức tranh.
-
Nữ thần tự do dẫn dắt nhân dân là một tác phẩm của họa sĩ trường phái lãng mạn Eugène Delacroix về cuộc cách mạng tháng bảy năm 1830 tại Paris. Trong khung cảnh khói lửa của cuộc chiến Delacroix mô tả một phụ nữ cầm là cờ ba màu đại diện cho tự do. Nhân vật cậu bé bên phải người phụ nữ đã gợi cảm hứng cho nhà văn Victor Hugo sáng tạo nhân vật Gavroche trong cuốn tiếu thuyết những người khốn khổ.
Nữ thần tự do dẫn dắt nhân dân, có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất của Eugène Delacroix, hiện được trưng bày tại bảo tàng Louvre, nước Pháp. Trong lịch sử các tác phẩm hội họa kinh điển của nền mỹ thuật Pháp, bức nữ thần tự do dẫn dắt người dân của danh họa Pháp Eugène Delacroix luôn được xem là tác phẩm đắt giá, ghi lại được tinh thần của cách mạng Pháp. Bức tranh có kích thước lớn 260 cm × 325 cm được treo tại bảo tàng Louvre là một tác phẩm đầy sức nặng, khắc họa lại một trang sử của nước Pháp. Trong khi đa phần các tác phẩm hội họa khắc họa lại một câu chuyện lịch sử thường đi theo hướng cụ thể hóa sự kiện, diễn biến, thì bức tranh này lại mang tính khái quát, biểu tượng, trong đó, người ta thấy được tinh thần Pháp, vẻ đẹp Pháp và bà mẹ Pháp, nữ thần tự do của người Pháp, nhân vật biểu tượng mà họ gọi bà bằng một cái tên cụ thể, Marianne.
Khi nước Pháp hôm nay phải đối diện với những cuộc khủng bố đẫm máu xảy ra liên tiếp, khiến cả thế giới bàng hoàng, sửng sốt, có thể đâu đó chúng ta bắt gặp sự xuất hiện trở lại của bức tranh mang ý nghĩa biểu tượng này, một bức tranh chứa đựng nhiều thông điệp về nước Pháp. -
Lễ đăng quang của Napoléon là một bức tranh của Jacques-Louis David, họa sĩ chính thức của Napoléon Bonaparte, hoàn thành năm 1807. Tác phẩm có kích thước rất lớn, dài gần 10 mét và cao hơn 6 mét, miêu tả buổi lễ lên ngôi hoàng đế của Napoléon Bonaparte, tổ chức tại nhà thờ Đức Bà Paris ngày 2 tháng 12 năm 1804.
Napoléon Bonaparte đã yêu cầu thực hiện tác phẩm này vào tháng 9 năm 1804 với tên chính thức lễ lên ngôi của hoàng đế Napoléon và lễ đăng quang của hoàng hậu Josephine. Jacques-Louis David bắt đầu vẽ vào ngày 21 tháng 12 năm 1805 trong nhà nguyện của trường Cluny, gần Sorbonne, khi đó được dùng làm xưởng vẽ. Với sự tham gia của Georges Rouget, học trò của David, bức họa hoàn thành vào tháng 11 năm 1807. Hiện nay, lễ đăng quang của Napoléon được trưng bày tại bảo tàng Louvre, Paris. Lễ đăng quang của Napoléon một hình ảnh của David, tọa lạc tại thời điểm này ở bảo tàng Louvre, và nó có thể xem tất cả khách tham quan bảo tàng. Trong thực tế, tên ban đầu của bức tranh cống hiến cho hoàng đế Napoleon và lễ đăng quang của hoàng hậu Josephine nhưng trong cuộc sống hàng ngày nó thường được sử dụng một phiên bản rút gọn. nghệ sĩ đề nghị của Napoleon nhận với niềm vui lớn lao, bởi vì nó đã đi theo mình và chia sẻ đầy đủ quan điểm của vị hoàng đế tương lai.Hơn nữa, sau cái chết của Robespierre, ông khao khát một vòng mới của công việc của mình. Napoleon đã nổi tiếng với tình yêu của mình của Caesar và đế chế La Mã như một toàn thể, vì vậy đi lên ngai vàng muốn dành theo thị hiếu riêng của họ. Lễ đăng quang của Napoléon là đỉnh cao của các thạc sĩ và đóng góp thông qua cổ điển đổi mới của chủ nghĩa hiện thực.
-
Chiếc bè của chiến thuyền Meduse là một bức tranh sơn dầu được họa sĩ lãng mạn người Pháp Théodore Géricault (1791–1824) thực hiện trong thời gian 1818–1819. Bức tranh được hoàn thành khi ông 27 tuổi và đã trở thành một biểu tượng cho chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Với kích thước 491 cm × 716 cm bức tranh mô tả một khoảnh khắc là hậu quả từ vụ đắm tàu frigate Méduse của hải quân Pháp sau khi bị mắc cạn vào ngày 2 tháng 7 năm 1816 ven bờ biển thuộc về Mauritanie ngày nay.
Vụ đắm tàu Méduse cách đây gần 2 thế kỷ là một sự kiện vô cùng thương tâm, bi thảm, khủng khiếp và rùng rợn, hoàn toàn do tội của con người gây ra. Tội lỗi ấy có thể đã được che đậy vĩnh viễn trong bóng tối nếu nó không bị phơi bầy ra giữa thanh thiên bạch nhật bởi tác phẩm hội hoạ chiếc bè của chiến thuyền Méduse của Théodore Géricault một bức tranh làm người xem kinh hãi, xôn xao bàn tán về sự thật đằng sau nó, những kẻ chịu trách nhiệm bị nguyền rủa, sự phẫn nộ bùng nổ thành một vụ scandal chấn động nước Pháp và thế giới, bộ mặt thối nát của nhà nước đương thời lộ nguyên hình. Sự thật ấy cũng đánh động lương tâm mọi người để nhận ra rằng con người không bao giờ được phép tự phụ về trình độ tiến hoá của mình khi bị dồn tới bước đường cùng, bản năng hoang dã có nguy cơ trỗi dạy để huỷ hoại toàn bộ thành tựu của tiến hoá, biến con người trở lại thành con vật. Với tất cả những hệ quả do nó tạo ra, bức tranh chiếc bè của chiến thuyền Méduse đã vượt ra khỏi ranh giới của hội hoạ để trở thành một trong những bài học sâu sắc nhất về xã hội, chính trị, và đặc biệt, nó đã rung lên tiếng chuông báo động về sự tha hoá trong đạo lý làm người của xã hội đương thời.Dường như muốn tiếng chuông ấy đến tai mọi người trong thế giới hiện đại nên trong năm 2008 vừa qua, Johnathan Miles đã cho ra mắt cuốn vụ đắm con tàu Méduse, kể lại toàn bộ chi tiết vụ việc, khi hạm đội Pháp do chiếc Méduse dẫn đầu, rầm rộ khởi hành đi Châu Phi.
-
Ngồi xếp bằng trong tư thế điềm tĩnh, Viên thư lại bằng đá vôi tô màu có vẻ như đang nhìn chăm chú vào những khách tham quan khu Ai Cập cổ đại của bảo tàng Louvre. Cái nhìn giống người một cách đáng ngạc nhiên của pho tượng đã gợi trí tò mò của các nhà khoa học.
Cảm thấy giống như sự hiện diện của một người sống, dám chắc là anh ta đang nhìn chòng chọc vào mắt. Và Aglaé, cỗ máy gia tốc lớn phân tích nguyên tố của Louvre, đã nhập cuộc để tìm hiểu bức tượng này. Aglaé dài 25 mét, gồm ba cụm có thể tách rời, với một nòng súng có thể bắn ra hàng tỷ hạt proton ở vận tốc khoảng 50.000 km/s. Dưới tác động của chùm proton do máy bắn ra, những nguyên tử của chất liệu cần phân tích sẽ phát ra các tia X, và được máy tách sóng thu lại. Vì mỗi loại chất liệu phát ra tia X có năng lượng khác nhau, do đó, căn cứ vào năng lượng này, người ta có thể tìm ra những thành phần hóa học tạo nên đồ vật. Dưới sự điều tra của Aglaé, Viên thư lại đã tiết lộ những bí mật của mình. Đó là một bức tượng bằng đá vôi, được tô vẽ bằng các chất màu truyền thống, màu đỏ trên thân là của ôxit sắt, màu đen của mái tóc lấy từ than. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên không phải là ở cơ thể bức tượng, mà từ đôi mắt, Anne Bouquilllon nhấn mạnh. Trong cặp mắt này, người xưa đã sử dụng magezit tự nhiên có màu trắng, kết hợp với việc tô giả vân đỏ, tái tạo trung thành những tĩnh mạch nhỏ của một cặp mắt mệt mỏi. Giác mạc được làm từ diôxit silic. Đó là một tinh thể đá có độ tinh khiết hết sức hiếm. Ngay cả Aglaé cũng không tìm thấy sự khác biệt trong viên đá quý.
Cuối cùng, con ngươi của mắt được tạo ra nhờ một cái hốc ăn sâu vào phía trong của tinh thể giác mạc, và không chứa kim loại như người ta từng nghĩ. Ở đây, người tạc tượng đã khéo léo làm lệch tâm hốc mắt để tạo ảo giác của một ánh mắt cử động, giác mạc được mài nhẵn bóng. Chưa hết, những nghệ sĩ cổ đại đã tạo cho mống mắt độ cong giống hệt với mắt người. Khi đo góc hội tụ của cặp mắt tượng, các chuyên gia nhận thấy chúng giống với cặp mắt của một người đang suy nghĩ và lắng nghe một cách chăm chú. -
Bức tuợng Psyche Revived by Cupid’s Kiss được ví như một kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc tân cổ điển của nghệ sĩ người Ý Antonio Canova được uỷ quyền vào năm 1787 bởi Colonel John Campbell. Tác phẩm mô tả cảnh thần Cupid trong thần thoại Hy Lạp sau khi cứu sống nàng Psyche bằng một nụ hôn.
Joachim Murat là người sở hữu bản đầu tiên được làm từ đá marble với kích thước 155cm x 168 cm vào năm 1800. Sau khi ông mất, tác phẩm được di dời và trưng bày tại Bảo tàng Louvre, Paris, Pháp vào năm 1824. Tác phẩm khắc họa hình ảnh cảm động khi Psyche, người đã được đưa vào giấc ngủ sâu và đặt trong hộp kín. Nay lại được hồi sinh bởi nụ hôn từ người chồng của mình, thần Cupid. Canova đã đặc tả một cách tài tình những cung bậc cảm xúc cao trào của đôi tình nhân bằng cách tập trung khắc họa biểu cảm chân thận cùng vị trí thân mật của hai nhân vật chính. Thần Cupid nhẹ nhàng nâng cơ thể của nàng lên, kề sát khuôn mặt của nàng, Louvre, nơi trưng bày và lưu giữ tác phẩm giải thích. Psyche dần tựa về sau, trừu mến ôm lấy đầu của Cupid.
Thần Cupid nâng Psyche yêu quý của mình trong vòng tay âu yếm, gương mặt hai người hạnh phúc khi được gần kề nhau bảo tàng Louvre, nơi tác phẩm hiện đang được đặt. Psyche thả mình từ từ về phía sau, ôm đầu người mình yêu một cách ân cần.