Top 12 Truyện cổ tích tiếng Anh đọc cho bé trước khi đi ngủ hay nhất

Tâm Thanh 79 0 Báo lỗi

Truyện cổ tích không chỉ giúp bé trau dồi khả năng ngôn ngữ mà còn giúp bé học hỏi thêm nhiều bài học cuộc sống thú vị. Truyện cổ tích là cách giáo dục hiệu ... xem thêm...

  1. In a spell of dry weather, when the Birds could find very little to drink, a thirsty Crow found a pitcher with a little water in it.


    But the pitcher was high and had a narrow neck, and no matter how he tried, the Crow could not reach the water. The poor thing felt as if he must die of thirst.


    Then an idea came to him. Picking up some small pebbles, he dropped them into the pitcher one by one. With each pebble the water rose a little higher until at last it was near enough so he could drink.


    “In a pinch a good use of our wits may help us out.”


    Bản dịch tiếng Việt:

    Vào một đợt khô hạn, khi các loài chim chỉ có thể tìm thấy rất ít nước để uống, một con quạ khát nước đã tìm thấy một cái bình trong đó có một ít nước.


    Nhưng cái bình thì cao và có cái cổ hẹp, và dù cho quạ ta có cố gắng sao đi chăng nữa thì nó cũng không thể chạm được tới nước trong bình. Nó cảm nhận một điều tệ hại nếu nó phải chết vì khát.


    Sau đó, một ý tưởng thoáng lên trong nó. Nó nhặt lên vài viên sỏi nhỏ và thả từng viên một vài cáu bình chứa nước. Cứ mỗi viên sỏi thì nước lại dâng lên cao hơn cho đến cuối cùng đã gần đủ để nên nó có thể uống.


    “Trong một trường hợp cấp thiết thì sự bình tĩnh sẽ giúp chúng ta vượt qua những sự cố.”


    Qua câu chuyện trên, ta rút ra bài học là hãy bình tĩnh và suy nghĩ thật thấu đáo những vấn đề mà bản thân gặp phải để có thể tìm ra cách giải quyết chính xác nhất.

    The Crow and the Pitcher (Con quạ và cái bình)
    The Crow and the Pitcher (Con quạ và cái bình)
    The Crow and the Pitcher (Con quạ và cái bình)
    The Crow and the Pitcher (Con quạ và cái bình)

  2. A quarrel had arisen between the Horse and the Stag, so the Horse came to a hunter to ask his help to take revenge on the Stag.


    The Hunter agreed, but said: “If you desire to conquer the Stag, you must permit me to place this piece of iron between your jaws, so that I may guide you with these reins, and allow this saddle to be placed upon your back so that I may keep steady upon you as we follow after the enemy.”


    Then with the aid of the Hunter the Horse soon overcame the Stag, and said to the Hunter: “Now, get off, and remove those things from my mouth and back.”

    “Not so fast, friend,” said the Hunter. “I have now got you under bit and spur, and prefer to keep you as you are at present.”

    If you allow men to use you for your own purposes, they will use you for theirs.


    Bài dịch tiếng Việt:
    Một cuộc xung đột nảy lửa xảy ra giữa Ngựa và hươu, sau đó Ngựa đến gặp một gã thợ để nhờ gã bày cách trả thù hươu.

    Gã nhận lời nhưng kèm theo điều kiện “Nếu mi mong muốn thắng Hươu như vậy, mi phải cho ta gắn miếng sắt này vào quai hàm của mi để ta có thể dùng dây cương điều khiển mi, bên cạnh đó phải có một cái yên trên lưng mi để ta có một chỗ ngồi vững khi chúng chúng ta săn đuổi kẻ thù”.

    Ngựa đồng ý các điều kiện đó, thế là gã thợ săn nhanh chóng gắn yên và dây cương cho nó.

    Sau đó nhờ những công cụ săn của gã mà ngựa đánh bại hươu một cách chóng vánh, Ngựa liền nói với gã “Nào giờ thì nhảy xuống và gỡ những thứ trên miệng và lưng của tôi ra đi nào”

    “Đừng vội anh bạn”, gã nói ” bây giờ ta hơi mệt rồi và ta thích giữ nguyên hiện trạng này của ngươi hơn”.

    Nếu bạn lợi dụng ai đó cho mục đích của bạn, họ sẽ lợi dụng bạn cho mục đích của họ.

    The Horse, Hunter and Stag (Ngựa, Thợ săn và Hươu)
    The Horse, Hunter and Stag (Ngựa, Thợ săn và Hươu)
    The Horse, Hunter and Stag (Ngựa, Thợ săn và Hươu)
    The Horse, Hunter and Stag (Ngựa, Thợ săn và Hươu)
  3. One day a wolf found a sheepskin. He covered himself with the sheepskin and got into a flock of sheep grazing in a field. He thought, "The shepherd will shut the sheep in the pen after sunset. At night I will run away with a fat sheep and eat it."


    All went well till the shepherd shut the sheep in the pen and left. The wolf waited patiently for the night to advance and grow darker. But then an unexpected thing happened. One of the servants of the shepherd entered the pen. His master had sent him to bring a fat sheep for supper. As luck would have it, the servant picked up the wolf dressed in the sheepskin. That night the shepherd and his guests had the wolf for supper.


    Bản dịch tiếng Việt:
    Một ngày kia, có một con sói tìm thấy một tấm da cừu. Nó lấy tấm da cừu khoác lên mình và trà trộn vào một đàn cừu đang gặm cỏ trên đồng. Nó nghĩ bụng: "Người chăn cừu sẽ nhốt lũ cừu vào chuồng sau khi mặt trời lặn. Đêm đến ta sẽ mang theo một con cừu thật béo đi và ăn thịt nó."

    Mọi chuyện đều tốt đẹp đến khi người chăn cừu nhốt đàn cừu vào chuồng và bỏ đi. Con sói kiên nhẫn chờ đợi màn đêm buông xuống. Nhưng rồi có một chuyện không ngờ tới đã xảy ra. Một người hầu của người chăn cừu đã đến chuồng nhốt cừu. Chủ nhân của anh ta đã sai anh ta mang về một con cừu béo để làm bữa ăn nhẹ. Đen đủi thay, người hầu đã chọn con sói trong tấm da cừu. Thế là đêm hôm đó, người chăn cừu và khách của ông ta đã có thịt sói làm bữa ăn nhẹ.

    Qua The Wolf in Sheep’s Clothing, ta rút ra được bài học rằng việc lợi dụng sự tin tưởng, lừa dối người khác với mục đích xấu sẽ không bao giờ mang lại kết quả tốt.

    The Wolf in Sheep’s Clothing (Con sói đội lốt cừu)
    The Wolf in Sheep’s Clothing (Con sói đội lốt cừu)
    The Wolf in Sheep’s Clothing (Con sói đội lốt cừu)
    The Wolf in Sheep’s Clothing (Con sói đội lốt cừu)
  4. A Bear came across a log where a Swarm of Bees had nested to make their honey. As he snooped around, a single little Bee flew out of the log to protect the swarm. Knowing that the Bear would eat all the honey, the little bee stung him sharply on the nose and flew back into the log.


    This flew the Bear into an angry rage. He swatted at the log with his big claws, determined to destroy the nest of bees inside. This only alerted the bees and quick as a wink, the entire swarm of bees flew out of the log and began to sting the bear from head to heel. The Bear saved himself by running to and diving into the nearest pond.


    “It is better to bear a single injury in silence than to bring about a thousand by reacting in anger.”


    Bản dịch tiếng Việt:
    Ngày nọ, một con Gấu đi qua chỗ có khúc gỗ nơi Bầy Ong xây tổ làm mật. Chú tò mò nhìn ngó xung quanh thì một con ong bay ra để bảo vệ đàn. Biết Gấu sẽ ăn hết mật, Con Ong bé nhỏ đốt thật mạnh vào mũi chú rồi bay vào trong khúc gỗ.

    Gấu tức giận như điên vì bị đốt đau. Chú nhất định phải tiêu diệt tổ ong bên trong, nên dùng những móng vuốt to của mình đập mạnh vào khúc gỗ. Bầy Ong bị động và bay ra rất nhanh, chỉ trong nháy mắt, chúng bắt đầu đốt Gấu khắp từ đầu tới chân. Gấu ta chỉ còn cách co giò chạy thoát thân rồi nhảy “ùm” xuống cái ao gần nhất.

    “Lặng lẽ chịu đựng chỉ một nỗi đau còn hơn là chịu cả ngàn thương tổn khi phản ứng lại trong cơn giận.”

    The Bear and the Bees muốn mang tới thông điệp rằng, đừng bao giờ hành động một cách thiếu suy nghĩ khi nóng giận vì có thể những hành động ấy là tác nhân gây hại đến chính bản thân ta.

    The Bear and the Bees (Con gấu và bầy ong)
    The Bear and the Bees (Con gấu và bầy ong)
    The Bear and the Bees (Con gấu và bầy ong)
    The Bear and the Bees (Con gấu và bầy ong)
  5. There was once a Cat who was so watchful, that a Mouse hardly dared show the tip of his whiskers for fear of being eaten alive. That Cat seemed to be everywhere at once with his claws all ready for a pounce. At last the Mice kept so closely to their dens, that the Cat saw he would have to use his wits well to catch one. So one day he climbed up on a shelf and hung from it, head downward, as if he were dead, holding himself up by clinging to some ropes with one paw.


    When the Mice peeped out and saw him in that position, they thought he had been hung up there in punishment for some misdeed. Very timidly at first they stuck out their heads and sniffed about carefully. But as nothing stirred, all trooped joyfully out to celebrate the death of the Cat. Just then the Cat let go his hold, and before the Mice recovered from their surprise, he had made an end of three or four.


    Now the Mice kept more strictly at home than ever. But the Cat, who was still hungry for Mice, knew more tricks than one. Rolling himself in flour until he was covered completely, he lay down in the flour bin, with one eye open for the Mice.


    Sure enough, the Mice soon began to come out. To the Cat it was almost as if he already had a plump young Mouse under his claws, when an old Rat, who had had much experience with Cats and traps, and had even lost a part of his tail to pay for it, sat up at a safe distance from a hole in the wall where he lived.

    “Take care!” he cried. “That may be a heap of meal, but it looks to me very much like the Cat. Whatever it is, it is wisest to keep at a safe distance.”


    Bài dịch tiếng Việt:
    Đã từng có một con mèo, kẻ rất cảnh giác đến nỗi con chuột không dám để lộ đầu râu của mình ra vì sợ bị ăn tươi nuốt sống. Con mèo đó dường như ở khắp mọi nơi cùng một lúc với bộ móng vuốt luôn sẵn sàng cho một cuộc tấn công bất ngờ. Những con chuột luôn giữ hang một cách kỹ lưỡng, nếu con mèo có nhìn thấy thì nó sẽ phải sử dụng trí thông minh của mình để bắt một con chuột. Vì thế, một ngày nọ, mèo leo lên kệ và treo người quay xuống như thể đã chết, nó giữ mình treo ngược bằng một chân bám vào sợi dây thừng.

    Khi các con chuột lén nhìn ra ngoài và thấy mèo trong tư thế đó, chúng nghĩ rằng con mèo được treo lên vì bị phạt do đã có một số hành động xấu. Lúc đầu chúng rất rụt rè đưa đầu ra và ngửi một cách cẩn trọng. Nhưng không có gì chuyển động, cả đám chuột hân hoan ăn mừng cái chết của con mèo.

    Ngay sau đó, con mèo buông chân xuống và trước khi những con chuột hết ngạc nhiên, nó đã tóm được ba đến bốn con chuột.

    Bấy giờ, những con chuột bắt đầu giữ hang của chúng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Nhưng mèo ta vẫn còn muốn ăn thêm chuột và cần nhiều thủ đoạn hơn lần đầu. Nó lăn mình trong bột mì đến khi được bao phủ hoàn toàn, nó nằm xuống trong thùng bột mì, một mắt mở canh lũ chuột.

    Chắc chắn, những con chuột lại sớm mò ra. Con mèo gần như đã có một con chuột béo dưới móng vuốt của mình, khi một con chuột già, người có nhiều kinh nghiệm với mèo và những cái bẫy, thậm chí ông đã bị mất một phần đuôi cho việc đó, ngồi xuống ở một khoảng cách an toàn từ một lỗ hổng trên tường, nơi ông sống.

    “Hãy cẩn thận!” ông la lên. “Đó có thể là một đống thịt nhưng giống con mèo nhiều hơn. Dù có bất cứ điều gì thì giữ khoảng cách an toàn vẫn là không ngoan.”

    The cat and the old rat (Con mèo và con chuột già)
    The cat and the old rat (Con mèo và con chuột già)
    The cat and the old rat (Con mèo và con chuột già)
    The cat and the old rat (Con mèo và con chuột già)
  6. On his deathbed, a father advised his son to always speak truth. The son promised that he would never tell a lie.


    One day, while going to the city through a forest, he got surrounded by some robbers. One of them asked, “What do you have?”


    The boy answered, “I have fifty rupees.”


    They searched him but couldn’t find anything. When they were about to go, the boy called out, “I am not telling a lie. See this fifty rupee note which I had hidden in my shirt.”


    The leader of the robbers felt pleased at the truthfulness of the boy, gave him hundred rupees as reward and went away.


    Bản dịch tiếng Việt:
    Trong giờ phút cuối đời của mình, người cha đã khuyên con trai ông ấy phải luôn nói thật. Người con hứa rằng anh ấy sẽ không bao giờ nói dối.

    Một ngày nọ, trong khi đi đến thành phố thông qua khu rừng, cậu bé bị bao quanh bởi những tên cướp. Một trong số chúng hỏi “mày có cái gì?”

    Anh ta trả lời: “Tôi có 50 đồng ru pi”

    Họ lục soát người anh ta nhưng không tìm thấy bất kỳ thứ gì. Khi họ chuẩn bị bỏ đi, cậu bé gọi họ lại: ” Tôi không nói dối. Nhìn này 50 đồng rupi tôi giấu trong áo này”.

    Thủ lĩnh băng cướp cảm thấy hài lòng về tính thật thà của cậu bé, ông ta cho cậu bé 100 đồng rupi như một phần thưởng và bỏ đi.

    Never tell a lie (Đừng bao giờ nói dối)
    Never tell a lie (Đừng bao giờ nói dối)
    Never tell a lie (Đừng bao giờ nói dối)
    Never tell a lie (Đừng bao giờ nói dối)
  7. Once upon a time, a Wolf was lapping at a spring on a hillside, when, looking up, what should he see but a Lamb just beginning to drink a little lower down. “There’s my supper,” thought he, “if only I can find some excuse to seize it.”


    Then he called out to the Lamb, “How dare you muddle the water from which I am drinking?”

    “Nay, master, nay,” said Lambikin; “if the water is muddy up there, I cannot be the cause of it, for it runs down from you to me.”


    “Well, then,” said the Wolf, “why did you call me bad names this time last year?”


    “That cannot be,” said the Lamb; “I am only six months old.”


    “I don’t care,” snarled the Wolf; “if it was not you it was your father;” and with that he rushed upon the poor little Lamb and ate her all up. But before she died she gasped out.


    Any excuse will serve a tyrant


    Bản dịch tiếng Việt:
    Vào một sáng sớm, một chú Cừu non đang uống nước bên bờ suối trong rừng. Cùng lúc ấy, một con chó Sói tiến đến con suối để kiếm mồi. Chẳng mấy chốc nó đã nhìn thấy con cừu. Sói nghĩ ngay tới bữa tối. Tuy nhiên, thoáng nghĩ, sói muốn tìm ra một lý do gì đó để ăn thịt cừu.

    Nó dữ dằn quát lớn “Sao mày dám vầy vọc con suối của tao làm nó đục ngầu lên hết vậy!” . “Mày đáng bị trừng phạt nặng vì cái tội nghịch ngợm của mày!”

    Con Cừu non run rẩy trả lời “Nhưng, thưa ông,” “xin ông đừng nổi giận! Con đâu có thể làm đục nước chỗ ông uống. Ông nhìn xem, ông đứng đầu dòng và con đứng cuối dòng.”

    Sói tức giận bẻ lại. “Mà còn nữa, Tao đã nghe mày nói dối tao nhiều lần hồi năm ngoái!”

    Cừu non biện hộ: “Làm sao con có thể nói dối ông được như thế?” “Con mới sinh ra được 6 tháng thôi.”

    Sói nói “Tao không quan tâm” ,”Nếu không phải là mày, thì là thằng cha mày!”

    Và rồi chẳng nói thêm lời nào nữa, Sói liền vồ lấy chú Cừu non tội nghiệp và tha vào trong rừng. Trước khi chết, con cừu non than:

    Kẻ bạo ngược luôn tìm được lý lẽ cho hành động của chúng.

    Thông qua The Wolf and the Lamb ta biết được rằng đừng bao giờ cố cãi nhau với những kẻ vô lý, bạo ngược vì chúng luôn có đủ lý do cho những hành động của chúng.

    The Wolf and the Lamb (Con sói và cừu non)
    The Wolf and the Lamb (Con sói và cừu non)
    The Wolf and the Lamb (Con sói và cừu non)
    The Wolf and the Lamb (Con sói và cừu non)
  8. IT happened that a Fox caught its tail in a trap, and in struggling to release himself lost all of it but the stump. At first he was ashamed to show himself among his fellow foxes. But at last he determined to put a bolder face upon his misfortune, and summoned all the foxes to a general meeting to consider a proposal which he had to place before them. When they had assembled together the Fox proposed that they should all do away with their tails. He pointed out how inconvenient a tail was when they were pursued by their enemies, the dogs; how much it was in the way when they desired to sit down and hold a friendly conversation with one another. He failed to see any advantage in carrying about such a useless encumbrance. “That is all very well,” said one of the older foxes; “but I do not think you would have recommended us to dispense with our chief ornament if you had not happened to lose it yourself.”


    “DISTRUST INTERESTED ADVICE.”


    Bản dịch tiếng Việt:

    Câu chuyện xảy ra khi một con Cáo bị mắc đuôi vào trong bẫy, và trong khi cố gắng để thoát ra Cáo ta bị đứt mất đuôi. Đầu tiên nó cảm thấy xấu hổ khi xuất hiện trước các bạn của nó. Nhưng cuối cùng nó quyết định dũng cảm đối mặt với sự không may đó, và mời tất cả các con cáo khác đến họp để xem xét đề nghị Cáo ta đề ra. Khi bầy cáo tập trung đông đủ, Cáo mất đuôi đề nghị tất cả bọn nên bỏ đuôi đi. Nó chỉ ra rằng cái đuôi rất bất tiện khi chúng bị kẻ thù hay chó truy đuổi, hoặc là khi chúng muốn ngồi và trò chuyện thân mật với nhau Nó thấy chẳng có ích lợi gì khi mang trên mình của nợ vô dụng đó.


    "Tốt lắm” một trong những con cáo già nói; “nhưng tôi nghĩ rằng cậu sẽ không khuyên chúng tôi từ bỏ cái đuôi mỹ miều, tô điểm chính của chúng tôi nếu như cậu không bị mất của chính mình.”


    “Đừng tin tưởng những lời khuyên của những kẻ muốn vụ lợi cho họ.”


    Qua The Fox without the tail, ta rút ra được rằng hãy có niềm tin vào chính mình, đừng mù quáng nghe theo những lời khuyên có lợi cho người khác.

    The Fox without the tail (Con cáo mất đuôi)
    The Fox without the tail (Con cáo mất đuôi)
    The Fox without the tail (Con cáo mất đuôi)
    The Fox without the tail (Con cáo mất đuôi)
  9. Long ago, the mice had a general council to consider what measures they could take to outwit their common enemy, the Cat.


    Some said this, and some said that; but at last a young mouse got up and said he had a proposal to make, which he thought would meet the case.


    “You will all agree,” said he, “that our chief danger consists in the sly and treacherous manner in which the enemy approaches us. Now, if we could receive some signal of her approach, we could easily escape from her.”


    “I venture, therefore, to propose that a small bell be procured, and attached by a ribbon round the neck of the Cat. By this means we should always know when she was about, and could easily retire while she was in the neighborhood.”


    This proposal met with general applause, until an old mouse got up and said: “That is all very well, but who is to bell the Cat?” The mice looked at one another and nobody spoke. Then the old mouse said:

    “IT IS EASY TO PROPOSE IMPOSSIBLE REMEDIES.”


    Bản dịch tiếng Việt:

    Đã từ lâu lắm, loài chuột đã tổ chức một hội nghị chung để tính toán xem ở giới hạn nào chúng có thể đối phó với kẻ thù chung, loài mèo.


    Một số con nói thế này, một số thì bảo thế nọ, cuối cùng có một con chuột nhỏ đứng dậy và hắn đã đưa ra một đề xuất cần làm, mà theo nó đề nghị cần được đáp ứng.


    “Mọi người đều đồng ý thế này”, nó nói, “nguy hiểm lớn nhất của chúng ta chính là yếu tố ranh mãnh và xảo trá khi kẻ thù tiếp cận chúng ta. Giờ đây, giá như chúng ta có thể nắm bắt được tín hiệu tiếp cận của kẻ thù, chúng ta có thể dễ dàng tẩu thoát.”


    “Chính vì vậy, tôi xin mạo muội đề nghị kiếm một cái lục lạc nhỏ, và đính với một cái nơ quanh cổ của con mèo. Bằng giải pháp này, lúc nào chúng ta cũng biết được kẻ thù ở đâu và dễ dàng rút lui khi hắn đang ở gần.”


    Lời đề nghị này được mọi người tán thán, đến khi một con chuột già đứng dậy và nói: “Đề nghị đấy tốt thôi, nhưng ai sẽ đeo lục lạc cho mèo?” Bọn chuột nhìn nhau từng con một và không ai nói lời nào. Rồi lão chuột nói:


    “THẬT DỄ DÀNG KHI ĐƯA RA GIẢI PHÁP BẤT KHẢ THI”


    Thông qua Belling the cat ta biết được rằng, sẽ có rất nhiều những giải pháp hay ho luôn được đưa ra nhưng không phải giải pháp nào cũng khả thi.

    Belling the cat (Đeo lục lạc cho mèo)
    Belling the cat (Đeo lục lạc cho mèo)
    Belling the cat (Đeo lục lạc cho mèo)
    Belling the cat (Đeo lục lạc cho mèo)
  10. It happened that a Dog had got a piece of meat and ứa car-rying it home in his mouth to eat it in peace.


    Now on his way home he had to cross a plank lying across a running brook. As he crossed, he looked down and saw his own shadow reflected in the water beneath.


    So he made a snap at the shadow in the water, but as he opened his mouth the piece of meat fell out, dropped into the water and never seen more.


    “Beware lest you lost the substance by grasping at the shadow”


    Bản dịch tiếng Việt:
    Chuyện xảy ra như sau: con chó có được một miếng thịt và nó ngoạm miếng thịt mang về nhà để có thể ăn một cách thỏa mái.

    Trên đường về nhà con chó phải đi qua một tấm ván bắc qua một con suối. Khi đi qua con suối, con chó nhìn xuống và thấy cái bóng của nó phản chiếu trên mặt nước.

    Nó nghĩ rằng có một con chó khác cũng đang ngoạm một miếng thịt, nó quyết định phải có thêm miếng thịt đó.

    Vì thế, nó đã cạp cái bóng trên mặt nước, nhưng khi nó mở miệng ra thì miếng thịt rơi thẳng xuống dòng suối và trôi đi mất.

    “Hãy nhớ rằng bạn sẽ đánh mất mình bởi sự tham lam khi theo đuổi thứ chỉ là ảo giác”

    Qua The dog and the shadow, ta hãy trân trọng và gìn giữ những gì mình đang có, chớ có tham lam, tranh giành những thứ không thuộc về mình.

    The dog and the shadow (Con chó và cái bóng)
    The dog and the shadow (Con chó và cái bóng)
    The dog and the shadow (Con chó và cái bóng)
    The dog and the shadow (Con chó và cái bóng)
  11. One day a countryman going to the nest of his Goose found there an egg all yellow and glittering.


    When he took it up it was as heavy as lead and he was going to throw it away, because he thought a trick had been played upon him.


    But he took it home on second thoughts, and soon found to his delight that it was an egg of pure gold.


    Every morning the same thing occurred, and he soon became rich by selling his eggs.


    As he grew rich he grew greedy; and thinking to get at once all the gold the Goose could give, he killed it and opened it only to find, nothing.


    Greed often overreaches itself.


    Bản dịch tiếng Việt:
    Một ngày nọ, một người nông dân tìm đến ổ của con ngỗng và thấy một quả trứng vàng sáng bóng.

    Ông cầm quả trứng lên xem thì thấy nó nặng như chì và quẳng nó đi vì ông nghĩ đây là một trò đùa dành cho mình.

    Nhưng nghĩ lại ông bèn mang nó về nhà và vui sướng khi nhận ra rằng đây là quả trứng bằng vàng nguyên chất.

    Mỗi sáng điều tương tự này đều xảy ra và ông ta sớm trở nên giàu có bằng việc bán những quả trứng vàng.

    Khi càng giàu có thì lòng tham cũng lớn dần lên, ông nghĩ cách để có tất cả trứng vàng của con ngỗng trong một lần, ông giết con ngỗng, mổ bụng nó để tìm trứng vàng nhưng không có gì trong đó cả.

    Tham thì thâm

    Qua The Goose with the Golden Egg ta biết được những kẻ hám lợi, tham lam sẽ gặp phải những điều xấu.

    Những kẻ hám lợi, tham lam sẽ gặp phải điều xấu.

    The Goose with the Golden Egg (Con ngỗng và quả trứng vàng)
    The Goose with the Golden Egg (Con ngỗng và quả trứng vàng)
    The Goose with the Golden Egg (Con ngỗng và quả trứng vàng)
    The Goose with the Golden Egg (Con ngỗng và quả trứng vàng)
  12. The fox invited the crane to dinner and served the meal on a plate. The crane could pick up nothing with his long beak, and the fox ate everything herself.


    The next day the crane invited the fox and served dinner in a jug with a narrow neck. The fox could not get her muzzle into the jug, but the crane stuck his long neck in and drank everything himself.


    Bản dịch tiếng Việt:
    Một hôm, Cáo mời Sếu đến nhà dùng bữa tối và nó bày biện thức ăn trên 1 cái dĩa dẹt. Sếu ta chẳng thể nào ăn được tí gì với cái mỏ dài và Cáo, một mình ăn hết mọi thứ.

    Hôm sau, Sếu mời Cáo tới nhà dùng bữa tối, và dọn thức ăn trong 1 cái bình có cái cổ hẹp. Cáo không thể nào làm gì để đưa cái mõm của nó vào trong cái bình, nhưng Sếu thì cắm cái mỏ dài vào và chén sạch mọi thứ.

    The Fox and the Crane mang đến bài học là hãy thử đặt mình vào vị trí của người khác, hiểu được cảm nhận của họ, không nên chỉ chăm chăm vào bản thân.

    The Fox and the Crane (Cáo và Sếu)
    The Fox and the Crane (Cáo và Sếu)
    The Fox and the Crane (Cáo và Sếu)
    The Fox and the Crane (Cáo và Sếu)



Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy