Top 9 Bài văn phân tích bài thơ Mạn thuật 13 của Nguyễn Trãi (Ngữ văn 10) hay nhất
Sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Trãi đã góp phần tạo nên điệp khúc văn chương, nhưng âm thanh tuyệt diệu luôn ám ảnh, lưu luyến, đọng lại trong lòng ... xem thêm...bao người. Trong số đó, có bài Mạn Thuật 13. Dưới đây là một số bài văn phân tích Mạn thuật 13 mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp. Mời các bạn đón đọc.
-
Bài tham khảo số 1
Bài thơ Mạn Thuật 13 là một trong những bài thơ nổi tiếng bằng chữ Nôm trong tập Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ khắc họa và gửi gắm sâu sắc tình yêu quê hương và con người nơi ông gắn bó. Bài thơ cũng phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi – một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống giản dị và thanh bình.
Bài thơ có 8 câu, tuân theo luật Đường luật biến thể. Bài thơ được viết bằng ngôn ngữ dân gian, gần gũi và sinh động. Bài thơ dùng nhiều phép tu từ như so sánh (song mai tỉnh hồn Cô dịch; kề nước cầm đưa tiếng Cửu cao), liên tưởng (rau trong nội, cá trong ao), hoạ miêu (khách đến vườn còn hoa lác; trăng lên rạch có trăng soi) để tạo ra những hình ảnh sinh động và giàu cảm xúc.
Bài thơ diễn tả quan điểm sống của Nguyễn Trãi: quê cũ nhà ta thiếu của nào? Ông không ham muốn giàu sang hay danh lợi, mà chỉ mong có một cuộc sống an yên và sung túc. Ông cũng tự hào về quê hương của mình: rau trong nội, cá trong ao. Đó là niềm vui và niềm tự tin của ông.
Bài thơ cũng biểu hiện sự yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi: song mai tỉnh hồn Cô dịch; kề nước cầm đưa tiếng Cửu cao. Ông không chỉ chiêm ngưỡng thiên nhiên mà còn lắng nghe âm thanh của thiên nhiên. Ông cảm nhận được sự sống động và hòa quyện giữa con người và thiên nhiên.
Bài thơ cũng chứa đựng sự hiếu khách và hiếu kỳ của Nguyễn Trãi: khách đến vườn còn hoa lác; trăng lên rạch có trăng soi.
-
Bài tham khảo số 2
Nguyễn Trãi – danh nhân văn hóa thế giới, là nhà văn, nhà thơ vĩ đại của Văn học Việt Nam, với khối lượng tác phẩm đồ sộ đầy quý giá, trải qua những thăng trầm của cuộc sống xã hội cũ, ông đã tìm ra cho mình những tư tưởng sống, tư tưởng hoạt động đầy sâu sắc, không chỉ có ý nghĩa với con người thời xưa mà còn có ý nghĩa với mọi thời đại.
“Tình yêu quê hương” là đề tài chủ đạo trong những bài thơ hay của Nguyễn Trãi, những ngày tháng gắn bó với quê hương yêu dấu. Trong tập “Quốc âm thi tập” – tập thơ nổi tiếng bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi là tình yêu thiên nhiên đặc biệt là bài thơ Mạn Thuật 13 đã được tác giả khắc họa và gửi gắm sâu sắc tình yêu quê hương và con người nơi ông gắn bó.
“Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao.
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.”
Với tám câu thơ ngắn ngủi nhưng ý nghĩa và hình ảnh thơ đầy độc đáo, cũng giống như bao bài thơ thuộc tập thơ “Quốc âm thi tập”, bài thơ Mạn Thuật 13 viết trong những ngày tháng về quê ở ẩn, xa rời nơi quan phủ đầy sóng gió và xô bồ. Về quê, về với những gì bình dị và thân thuộc đến lạ. Viết bằng thể thơ Thất ngôn xen lục ngôn nổi bật nhờ tính sáng tạo, tạo nên mỗi câu thơ đều tinh tế và ấm áp.
“Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao”
Ngay hai câu thơ đầu của bài thơ, Nguyễn Trãi đã giới thiệu về quê hương của mình, “quê cũ” – hai từ bình dị cũng rất đỗi quen thuộc, tác giả nói lên như một sự giàu có của quê hương “thiếu của nào”, sự đầy đủ không phải về vật chất, những rau, những cá, những món ăn đầy quen thuộc của quê hương, gắn với những mảnh vườn thôn quê nhỏ nhắn những luống rau tươi xanh hay những ao cá nước ngọt với những con cá ngon lành, tất cả được Nguyễn Trãi khắc họa món ăn quê hương đầy giản dị nhưng cũng rất đỗi thân thương.
Đến những câu thơ tiếp theo, tác giả vẫn tập trung khắc họa bức tranh thiên nhiên đầy quen thuộc, có trăng có núi, có cò, tất cả đặc trưng cho vẻ đẹp của quê hương khi qua ngòi bút của Nguyễn Trãi nó trở nên tươi đẹp hơn cả, một tâm hồn thi sĩ sâu sắc và tấm lòng hết mình với quê hương, chỉ có một tâm hồn thật sự sâu sắc thì mới có thể khắc họa chân thực và gần gũi đến như vậy.
Bức tranh thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi trở nên trọn vẹn như vậy, theo ông, quê hương là nơi nuôi dưỡng và cho ta những tình cảm đẹp như vậy, có quê hương là cội nguồn là nơi xuất phát từ biết bao yêu thương. Với những tư tưởng đẹp như vậy, ông đã góp phần xây dựng quê hương đất nước tươi đẹp.
Một cuộc đời trải qua nhiều những thăng trầm, những mất mát nhưng với ông quê hương vẫn là nơi sinh ra ông tuy tuổi thơ còn nhiều khó khăn khi mất mẹ từ sớm, nhưng trong ông quê hương vẫn luôn bao bọc, theo mình đến khi từ giã cõi đời, tất cả ông chỉ phụng sự cho quê hương, tự hào về quê hương yêu dấu. Đó là tư tưởng lớn của một tâm hồn yêu nước, yêu quê hương mà chỉ có Nguyễn Trãi – một tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc.
Bài thơ nổi bật với bức tranh thiên nhiên quê hương được tác giả Nguyễn Trãi khắc họa đầy sâu sắc, với các biện pháp nghệ thuật đầy độc đáo, phép đối, phép đảo ngữ một cách thuần thục, ngôn ngữ giản dị đầy tự nhiên, phát huy vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc. Chất trữ tình và triết lí chủ đạo trong tác phẩm nhịp điệu nhẹ nhàng độc đáo. Qua đó, thể hiện tài năng xuất chúng của Nguyễn Trãi đã góp công to lớn vào sự nghiệp văn học dân tộc.
-
Phong cách thơ Nguyễn Trãi?
Nguyễn Trãi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của văn học Việt Nam, và phong cách thơ của ông rất đa dạng và phong phú. Dưới đây là một số đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ của Nguyễn Trãi:
- Tính hiện thực và chính trị: Nguyễn Trãi sống trong thời kỳ đầy biến động với nhiều cuộc chiến tranh và chính trị. Thơ của ông thường phản ánh hiện thực xã hội và chính trị, thể hiện lòng yêu nước và khát vọng độc lập của dân tộc. Những bài thơ như "Bình Ngô đại cáo" không chỉ có giá trị về mặt văn học mà còn về mặt lịch sử và chính trị.
- Tinh thần nhân văn và yêu nước: Nguyễn Trãi có lòng yêu nước sâu sắc và thường bày tỏ lòng thương dân qua thơ của mình. Ông viết về sự đau khổ của nhân dân, về những khó khăn và thử thách mà đất nước phải đối mặt, và kêu gọi tinh thần đoàn kết và đấu tranh để giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ.
- Ví dụ: "Bùi có một lòng trung liễn hiếu/ Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen."
- Phân tích: Nguyễn Trãi thể hiện lòng trung thành và hiếu nghĩa, nhấn mạnh sự trong sạch và trung thực trong cuộc sống của một người. Tinh thần nhân văn này phản ánh sự coi trọng phẩm hạnh cá nhân và lòng yêu nước, bởi việc trung thành và hiếu nghĩa cũng đồng nghĩa với việc phục vụ tổ quốc và nhân dân một cách tận tụy.
- Sử dụng ngôn ngữ tinh tế và hình ảnh phong phú: Nguyễn Trãi có khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế, khéo léo và tạo ra những hình ảnh sống động. Ông thường dùng các hình ảnh thiên nhiên, lịch sử và văn hóa dân gian để tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc.
- Ví dụ: "Ao cạn vớt bèo cấy muống/Trì thanh phát cỏ ương sen."
- Phân tích: Những hình ảnh trong câu thơ này rất cụ thể và sinh động, mô tả hoạt động chăm sóc ao hồ và các cây cỏ. Nguyễn Trãi dùng các hình ảnh gần gũi và quen thuộc để tạo ra bức tranh thanh bình và gợi cảm giác yên tĩnh trong cuộc sống nông thôn. Điều này không chỉ thể hiện kỹ thuật nghệ thuật tinh tế mà còn tạo nên một không gian và tâm trạng hòa hợp với thiên nhiên.
- Chủ đề đa dạng: Thơ Nguyễn Trãi không chỉ tập trung vào các vấn đề chính trị và xã hội, mà còn có nhiều bài thơ viết về tình yêu, tình bạn, và tình cảm gia đình. Ông cũng thể hiện sự kính trọng đối với các bậc tiền nhân và văn hóa dân tộc. Các tác phẩm nổi tiếng của ông: Bình Ngô Đại Cáo, Côn Sơn Ca,...
- Thể loại và hình thức: Nguyễn Trãi sử dụng nhiều thể loại thơ khác nhau, bao gồm thơ Đường luật, thơ lục bát, và thơ ca dao. Ông linh hoạt trong việc sử dụng các thể loại này để truyền đạt ý tưởng và cảm xúc của mình.
- Tính triết lý và tư tưởng: Thơ của Nguyễn Trãi thường mang một chiều sâu triết lý, với nhiều suy ngẫm về nhân sinh, đạo đức và quy luật cuộc sống. Ông thường kết hợp giữa lý tưởng và thực tiễn trong các tác phẩm của mình.
Phong cách thơ của Nguyễn Trãi không chỉ được đánh giá cao vì nội dung và ý nghĩa sâu sắc mà còn vì kỹ thuật nghệ thuật tinh tế và sáng tạo. Những tác phẩm của ông tiếp tục có ảnh hưởng lớn đến nền văn học Việt Nam và là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà thơ và nhà văn sau này.
-
Nội dung cần có trong phân tích?
Để phân tích bài thơ "Mạn thuật 13" của Nguyễn Trãi, chúng ta cần xem xét các yếu tố sau:
- Hoàn cảnh sáng tác và bối cảnh lịch sử
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác khi ông đã về ẩn cư tại Côn Sơn sau khi bị triều đình nghi kỵ, xa lánh. Đây là thời kỳ ông sống ẩn dật, xa lánh cuộc sống quan trường.
- Bối cảnh lịch sử: Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa, nhà chính trị, và nhà thơ lớn của dân tộc. Tuy nhiên, ông phải chịu nhiều oan khuất và bất hạnh trong cuộc đời, đặc biệt là sau vụ án Lệ Chi Viên.
- Phân tích nội dung và ý nghĩa từng câu thơ
- Câu 1 và 2: "Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao."
- Phân tích: Nguyễn Trãi mô tả cuộc sống bình dị, tự cung tự cấp ở quê nhà. Ông không cần những thứ xa hoa, vật chất; chỉ cần rau trong vườn, cá trong ao là đủ để sống yên bình. Đây cũng thể hiện sự thỏa mãn với cuộc sống đơn giản, gần gũi với thiên nhiên.
- Câu 3 và 4: "Cách song, mai tỉnh hồn Cô Dịch, Kề nước, cầm đưa tiếng Cửu Cao."
- Phân tích: Hình ảnh trong hai câu thơ này gợi lên khung cảnh thanh tịnh, yên bình. "Cô Dịch" và "Cửu Cao" là những địa danh nổi tiếng trong văn học cổ điển Trung Hoa, tượng trưng cho cảnh sắc đẹp đẽ, yên tĩnh. Nguyễn Trãi so sánh sự tỉnh thức của mình với cảnh sắc ấy, thể hiện tâm trạng hoài niệm về quá khứ, đồng thời cũng bộc lộ tâm trạng tĩnh lặng, an nhiên trong cảnh ẩn cư.
- Câu 5 và 6: "Khách đến vườn còn hoa lạc/ Thơ nên cửa thấy nguyệt vào."
- Phân tích: Hai câu thơ gợi lên hình ảnh thiên nhiên thanh bình, hoa lá trong vườn vẫn nở rộ, trăng sáng vẫn soi vào nhà. Điều này cho thấy dù thời gian trôi qua, thiên nhiên vẫn đẹp đẽ và tràn đầy sức sống. Nguyễn Trãi cảm nhận được sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên trong cuộc sống ẩn dật.
- Câu 7 và 8: "Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ, Lẩn thẩn làm chi áng mận đào."
- Phân tích: Câu thơ cuối thể hiện rõ sự lựa chọn của Nguyễn Trãi: sống giữa cảnh thanh bình, yên tĩnh mà không cần bận tâm đến những phù phiếm, danh lợi của cuộc sống quan trường. Ông tự hỏi tại sao lại phải lẩn thẩn theo đuổi những điều viển vông, xa hoa (ám chỉ áng "mận đào", tượng trưng cho sắc đẹp và sự phù phiếm).
- Câu 1 và 2: "Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao."
- Giá trị nghệ thuật
- Ngôn từ giản dị, giàu hình ảnh: Bài thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi nhưng giàu hình ảnh, tạo nên một không gian thanh tịnh, yên bình.
- Tâm trạng bình an: Qua các hình ảnh thiên nhiên và sinh hoạt hàng ngày, Nguyễn Trãi thể hiện tâm trạng an nhiên, hài lòng với cuộc sống hiện tại, dù đã rời xa quan trường.
- Tư tưởng triết lý: Bài thơ thể hiện tư tưởng sống ẩn dật, tìm về với thiên nhiên và sự bình yên trong tâm hồn. Đây cũng là một trong những tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Trãi trong giai đoạn cuối đời. Ông tìm thấy niềm vui trong cuộc sống giản dị, xa rời những tranh đấu, thị phi của thế gian.
- Kết luận: "Mạn thuật 13" không chỉ là một bài thơ tự thuật về cuộc sống ẩn dật của Nguyễn Trãi mà còn là một tác phẩm phản ánh triết lý sống của ông. Qua bài thơ, ta thấy rõ tâm hồn thanh cao, trí tuệ và nhân cách lớn của một trong những nhà thơ, nhà chính trị vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.
- Hoàn cảnh sáng tác và bối cảnh lịch sử
-
Bài tham khảo số 3
Nhận xét về thơ văn của Nguyễn Trãi, Xuân Diệu viết: “Trán nhà thơ chạm mây, nhưng bên trong thơ vẫn hừng hực ngon lửa cuộc đời ấm áp”. Mặc dù dòng chảy thời gian theo quy luật tàn khốc của nó có thể khiến nhiều thứ chìm vào lãng quên. Nhưng những vần thơ thấm đẫm tình đời, tình người của Nguyễn Trãi sẽ còn sống mãi trong lòng biết bao người.
Sự nghiệp sáng tác văn chương của ông đã góp phần tạo nên điệp khúc văn chương, nhưng âm thanh tuyệt diệu luôn ám ảnh, lưu luyến, đọng lại trong lòng bao người. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, ghi dấu ấn đậm sâu trong lòng người đọc, tiêu biểu là bài Mạn Thuật 13:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao.
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.
Bài thơ Mạn Thuật 13 là một trong những bài thơ nổi tiếng bằng chữ Nôm trong tập Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ khắc họa và gửi gắm sâu sắc tình yêu quê hương và con người nơi ông gắn bó. Bài thơ cũng phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi – một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống giản dị và thanh bình. Bài thơ có 8 câu, tuân theo luật Đường luật biến thể, được viết bằng ngôn ngữ dân gian, gần gũi và sinh động. Những câu thơ mở đầu tuy ngắn gọn, nhưng đầy xúc tích gợi những tình cảm sâu sắc về quê hương:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên, khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. Cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đát trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát.
Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tận cho tác giả, làm cho ông cảm thây vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê. Ông đã miêu tả vẻ đẹp sinh động và đầy ẩn chứa của quê hương mình một cách tuyệt vời.
Tác giả sử dụng cụm từ “quê cũ” để mô tả sự phong phú và đầy đủ của quê hương. Những món ăn tuy dân dã, quen thuộc như rau, cá và các món ăn khác được mô tả thông qua các mảnh vườn nhỏ bé, những ao cá nước ngọt và những con cá ngon lành trong đó. Tất cả những điều này đã làm cho món ăn quê hương trở nên giản dị nhưng đầy tình cảm trong trái tim của độc giả.
Một bức tranh thiên nhiên hiện ra một cách hài hòa cảnh vật với nhau. Trong những bài thơ của mình, Nguyễn Trãi đã tình cảm miêu tả về thiên nhiên quê hương, đưa ra minh chứng rõ ràng cho tình yêu và lòng tôn kính ông dành cho đất nước.
Tác phẩm của ông thể hiện niềm kiêu hãnh, tình cảm sâu sắc và tinh thần cao đẹp, lan tỏa đến người đọc qua từng câu thơ tuyệt đẹp. Từ những vùng nông thôn đơn sơ đến những cánh đồng xanh ngát, từ những ngọn đồi xa vời đến những con suối reo rắt, tất cả đều được tác giả khắc họa một cách tuyệt vời, đầy sức sống và tràn đầy cảm xúc.
Thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: “Non nước cùng ta đã có duyên” (“Tự thán”- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.
Những đóng góp về văn học của Nguyễn Trãi là hết sức to lớn, có giá trị mở đầu cho nhiều truyền thống quý báu của văn học dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi thấm nhuần tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa vì dân, cùng với niềm suy tư thế sự và tình yêu thiên nhiên, đất nước.
“Yêu nước, thương dân” và “nhân nghĩa vì dân”, khát vọng xây dựng một quốc gia độc lập, hưng thịnh, thái bình, người dân được sống ấm no, hạnh phúc là những nội dung lớn trong thơ văn Nguyễn Trãi.
-
Bài tham khảo số 4
Bài thơ “Mạn thuật 13” của tác giả Nguyễn Trãi miêu tả về vẻ đẹp và sự yên bình của quê hương. Tác giả khắc họa một cảnh quan trong sáng, thanh tịnh, kèm theo đó là những hình ảnh sống động về các loài cây trồng và động vật nuôi trong vùng quê.
Từng chi tiết nhỏ được tác giả gửi gắm qua từng câu thơ, như rau trong nội, cá trong ao, hay hoa lạc trong vườn khiến cho người đọc cảm nhận được sự chân thực và đời thường của cuộc sống nông thôn. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa vào những tên gọi địa danh như Cô Dịch, Cửu Cao để mô tả về vùng đất quê hương.
“Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.”
Cuối bài thơ, tác giả đề cao vẻ đẹp của quê hương và sự thanh tịnh của cảnh vật, đồng thời khúc sau của bài thơ cũng diễn tả sự hoài niệm, mộng mơ của tác giả khi ông suy nghĩ về việc quay trở về quê cũ nơi có sự an yên giữa thiên nhiên, nhưng đồng thời cũng phản ánh sự mất mát và nhớ nhung về những thứ đã khó khăn để bỏ lại sau lưng.
-
Bài tham khảo số 5
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa thế giới, được xem là một trong những nhà văn, nhà thơ vĩ đại nhất của Văn học Việt Nam. Khối lượng tác phẩm của ông đồ sộ và đầy quý giá, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc qua nhiều thời kỳ và thế hệ.
Trong những tác phẩm của mình, Nguyễn Trãi thường lấy tình yêu quê hương làm chủ đề chính. Ông biết cách kết hợp giữa những trải nghiệm cuộc sống và tình yêu dành cho quê hương, để tạo ra những bài thơ, văn xuôi đầy sâu sắc và ý nghĩa. Trong tập thơ nổi tiếng bằng chữ Nôm của ông – “Quốc âm thi tập”, tình yêu thiên nhiên cũng là một trong những đề tài được Nguyễn Trãi khắc họa và gửi gắm sâu sắc tình yêu đối với quê hương và con người.
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao.
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.
Bài thơ Mạn Thuật 13 với tám câu thơ ngắn ngủi, không chỉ đơn giản là một tác phẩm thơ văn, mà còn là một tấm gương sáng cho sự lựa chọn sống đơn giản, tĩnh lặng và bình yên trong cuộc sống đầy nhịp độ hiện đại ngày nay.
Tác giả đã sử dụng những hình ảnh bình dị trong đời sống quê hương như con đường nhỏ, chiếc ghế tre, đám cỏ dại,… để thể hiện sự yêu thương và tôn vinh giá trị của những thứ đơn giản và bình thường nhất trong cuộc sống. Những câu thơ ngắn gọn, xúc tích nhưng cũng rất đầy đủ nội dung đã giúp tác giả truyền tải tới độc giả những tình cảm và suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và tình yêu quê hương.
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Trong những câu thơ đầu tiên của bài thơ, Nguyễn Trãi đã tả lại vẻ đẹp của quê hương mình với sự giàu có đầy ẩn chứa. Quê cũ – hai từ bình dị nhưng rất quen thuộc đã được tác giả dùng để miêu tả sự phong phú và đầy đủ của quê hương. Những món ăn đầy quen thuộc như rau, cá, hay các món ăn khác được miêu tả qua những mảnh vườn thôn quê nhỏ nhắn, những ao cá nước ngọt với những con cá ngon lành. Tất cả những điều này khiến cho món ăn quê hương trở nên giản dị nhưng cũng rất thân thương trong lòng người đọc.
Bức tranh thiên nhiên đầy tình yêu của Nguyễn Trãi trong thơ là một minh chứng cho tình yêu và sự kính trọng của ông dành cho quê hương. Đó là một niềm tự hào, một tình cảm sâu sắc và tinh thần cao đẹp mà tác giả đã truyền tải đến độc giả thông qua những câu thơ đẹp. Từ những bức tranh nông thôn đến những đồi núi xa xôi, tất cả được tác giả miêu tả một cách tuyệt vời, đầy sức sống và tràn đầy cảm xúc.
Tác phẩm của Nguyễn Trãi mang đến cho người đọc những giá trị văn hóa vô giá, là bước đầu tiên cho sự phát triển của văn học Việt Nam. Với tài năng vượt trội, ông đã trở thành một tượng đài lớn trong lịch sử và văn học Việt Nam. Ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng đất nước và những người yêu thơ.
Những giá trị của Nguyễn Trãi vẫn luôn tồn tại và phát triển trong thời gian dài, trở thành một nguồn cảm hứng cho thế hệ sau. Những tác phẩm văn học của ông được coi là những tài sản văn hoá quý giá, là điểm tựa tinh thần cho người dân Việt Nam. Và sự kính trọng, tôn trọng tình yêu quê hương của Nguyễn Trãi là nguồn cảm hứng, tinh thần động viên cho tất cả những ai đang yêu quê hương, đang tôn vinh văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trong tương lai, tình yêu và sự kính trọng đối với quê hương, tinh thần yêu nước sẽ vẫn được truyền tụng và phát triển lớn mạnh hơn nữa nhờ vào những tài sản văn học quý giá của Nguyễn Trãi. Và chính những giá trị đó sẽ giúp cho người dân Việt Nam giữ vững tình yêu và sự kính trọng đối với quê hương, cùng chung tay xây dựng đất nước ngày càng phát triển và vinh quang.
-
Bài tham khảo số 6
Nguyễn Trãi - danh nhân văn hóa thế giới, là nhà văn, nhà thơ vĩ đại của Văn học Việt Nam, với khối lượng tác phẩm đồ sộ đầy quý giá, trải qua những thăng trầm của cuộc sống xã hội cũ, ông đã tìm ra cho mình những tư tưởng sống, tư tưởng hoạt động đầy sâu sắc, không chỉ có ý nghĩa với con người thời xưa mà còn có ý nghĩa với mọi thời đại. “Tình yêu quê hương” là đề tài chủ đạo trong những bài thơ hay của Nguyễn Trãi, những ngày tháng gắn bó với quê hương yêu dấu. Trong tập “Quốc âm thi tập” - tập thơ nổi tiếng bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi là tình yêu thiên nhiên đặc biệt là bài thơ Mạn Thuật 13 đã được tác giả khắc họa và gửi gắm sâu sắc tình yêu quê hương và con người nơi ông gắn bó.
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao.
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào."
Với tám câu thơ ngắn ngủi nhưng ý nghĩa và hình ảnh thơ đầy độc đáo, cũng giống như bao bài thơ thuộc tập thơ “Quốc âm thi tập”, bài thơ Mạn Thuật 13 viết trong những ngày tháng về quê ở ẩn, xa rời nơi quan phủ đầy sóng gió và xô bồ. Về quê, về với những gì bình dị và thân thuộc đến lạ. Viết bằng thể thơ Thất ngôn xen lục ngôn nổi bật nhờ tính sáng tạo, tạo nên mỗi câu thơ đều tinh tế và ấm áp.
“Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao”
Ngay hai câu thơ đầu của bài thơ, Nguyễn Trãi đã giới thiệu về quê hương của mình, “quê cũ” - hai từ bình dị cũng rất đỗi quen thuộc, tác giả nói lên như một sự giàu có của quê hương “thiếu của nào”, sự đầy đủ không phải về vật chất, những rau, những cá, những món ăn đầy quen thuộc của quê hương, gắn với những mảnh vườn thôn quê nhỏ nhắn những luống rau tươi xanh hay những ao cá nước ngọt với những con cá ngon lành, tất cả được Nguyễn Trãi khắc họa món ăn quê hương đầy giản dị nhưng cũng rất đỗi thân thương.
Đến những câu thơ tiếp theo, tác giả vẫn tập chung khắc họa bức tranh thiên nhiên đầy quen thuộc, có trăng có núi, có cò, tất cả đặc trưng cho vẻ đẹp của quê hương khi qua ngòi bút của Nguyễn Trãi nó trở nên tươi đẹp hơn cả, một tâm hồn thi sĩ sâu sắc và tấm lòng hế mình với quê hương, chỉ có một tâm hồn thật sự sâu sắc thì mới có thể khắc họa chân thực và gần gũi đến như vậy. Bức tranh thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi trở nên trọn vẹn như vậy, theo ông, quê hương là nơi nuôi dưỡng và cho ta những tình cảm đẹp như vậy, có quê hương là cội nguồn là nơi xuất phát từ biết bao yêu thương. Với những tư tưởng đẹp như vậy, ông đã góp phần xây dựng quê hương đất nước tươi đẹp.
Một cuộc đời trải qua nhiều những thăng trầm, những mất mát nhưng với ông quê hương vẫn là nơi sinh ra ông tuy tuổi thơ còn nhiều khó khăn khi mất mẹ từ sớm, nhưng trong ông quê hương vẫn luôn bao bọc, theo mình đến khi từ giã cõi đời, tất cả ông chỉ phụng sự cho quê hương, tự hào về quê hương yêu dấu. Đó là tư tưởng lớn của một tâm hồn yêu nước, yêu quê hương mà chỉ có Nguyễn Trãi - một tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc.
Bài thơ nổi bật với bức tranh thiên nhiên quê hương được tác giả Nguyễn Trãi khắc họa đầy sâu sắc, với các biện pháp nghệ thuật đầy độc đáo, phép đối, phép đảo ngữ một cách thuần thục, ngôn ngữ giản dị đầy tự nhiên, phát huy vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc. Chất trữ tình và triết lí chủ đạo trong tác phẩm nhịp điệu nhẹ nhàng độc đáo. Qua đó, thể hiện tài năng xuất chúng của Nguyễn Trãi đã góp công to lớn vào sự nghiệp văn học dân tộc.
-
Bài tham khảo số 7
Nhận xét về thơ văn của Nguyễn Trãi, Xuân Diệu viết: “Trán nhà thơ chạm mây, nhưng bên trong thơ vẫn hừng hực ngon lửa cuộc đời ấm áp”. Mặc dù dòng chảy thời gian theo quy luật tàn khốc của nó có thể khiến nhiều thứ chìm vào lãng quên. Nhưng những vần thơ thấm đẫm tình đời, tình người của Nguyễn Trãi sẽ còn sống mãi trong lòng biết bao người. Sự nghiệp sáng tác văn chương của ông đã góp phần tạo nên điệp khúc văn chương, nhưng âm thanh tuyệt diệu luôn ám ảnh, lưu luyến, đọng lại trong lòng bao người. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, ghi dấu ấn đậm sâu trong lòng người đọc, tiêu biểu là bài Mạn Thuật 13
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong ruộng, cá trong ao
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao
Khách đến vườn còn hoa lạc
Thơ nên của thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh đường ấy chăng về nghỉ
Lẩn thân làm chi áng mận đào".
Bài thơ Mạn Thuật 13 là một trong những bài thơ nổi tiếng bằng chữ Nôm trong tập Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ khắc họa và gửi gắm sâu sắc tình yêu quê hương và con người nơi ông gắn bó. Bài thơ cũng phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi - một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống giản dị và thanh bình. Bài thơ có 8 câu, tuân theo luật Đường luật biến thể, được viết bằng ngôn ngữ dân gian, gần gũi và sinh động. Những câu thơ mở đầu tuy ngắn gọn, nhưng đầy xúc tích gợi những tình cảm sâu sắc về quê hương:
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong ruộng, cá trong ao
Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên, khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. Cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đát trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát. Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tận cho tác giả, làm cho ông cảm thây vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê. Ông đã miêu tả vẻ đẹp sinh động và đầy ẩn chứa của quê hương mình một cách tuyệt vời. Tác giả sử dụng cụm từ "quê cũ" để mô tả sự phong phú và đầy đủ của quê hương. Những món ăn tuy dân dã, quen thuộc như rau, cá và các món ăn khác được mô tả thông qua các mảnh vườn nhỏ bé, những ao cá nước ngọt và những con cá ngon lành trong đó. Tất cả những điều này đã làm cho món ăn quê hương trở nên giản dị nhưng đầy tình cảm trong trái tim của độc giả.
Một bức tranh thiên nhiên hiện ra một cách hài hòa cảnh vật với nhau. Trong những bài thơ của mình, Nguyễn Trãi đã tình cảm miêu tả về thiên nhiên quê hương, đưa ra minh chứng rõ ràng cho tình yêu và lòng tôn kính ông dành cho đất nước. Tác phẩm của ông thể hiện niềm kiêu hãnh, tình cảm sâu sắc và tinh thần cao đẹp, lan tỏa đến người đọc qua từng câu thơ tuyệt đẹp. Từ những vùng nông thôn đơn sơ đến những cánh đồng xanh ngát, từ những ngọn đồi xa vời đến những con suối reo rắt, tất cả đều được tác giả khắc họa một cách tuyệt vời, đầy sức sống và tràn đầy cảm xúc.
Thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: "Non nước cùng ta đã có duyên" ("Tự thán"- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.
Những đóng góp về văn học của Nguyễn Trãi là hết sức to lớn, có giá trị mở đầu cho nhiều truyền thống quý báu của văn học dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi thấm nhuần tư tưởng yêu nước, nhân nghĩa vì dân, cùng với niềm suy tư thế sự và tình yêu thiên nhiên, đất nước. “Yêu nước, thương dân” và “nhân nghĩa vì dân”, khát vọng xây dựng một quốc gia độc lập, hưng thịnh, thái bình, người dân được sống ấm no, hạnh phúc là những nội dung lớn trong thơ văn Nguyễn Trãi.