Top 9 Tu viện trên núi nổi tiếng nhất
Trong nhiều thế kỷ, các tu sĩ nam nữ đã chọn rút lui khỏi xã hội để sống cuộc sống cô độc, tự nhận thức cùng lòng sùng đạo. Điều này đã thôi thúc họ xây dựng ... xem thêm...nên những tu viện tại một số địa điểm biệt lập nhất. Sau đây, Toplist sẽ giới thiệu đến bạn 10 tu viện trên núi nổi tiếng với sự ngoạn mục và vẻ ngoài xinh đẹp, độc đáo.
-
Tu viện Mont-Saint-Michel - Pháp
Mont-Saint-Michel là tu viện mang phong cách Gothic dành riêng cho tổng lãnh thiên thần Michael. Nó nằm trên một núi đá Granit bao quanh bởi cát lún trong lãnh thổ của xã Pháp Le Mont-Saint-Michel, tại vùng Normand; giữa những bờ biển bao la chịu sự lên xuống của thủy triều dâng cao nhất lục địa Châu Âu. Rực rỡ với các mái vòm chạm khắc cao và thanh mảnh, các ô cửa sổ kính màu chiếu sáng. Việc xây dựng tu viện này được diễn ra từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 16, thích ứng với một địa điểm tự nhiên khó khăn, được xem là thành tựu về mặt kỹ thuật cũng như nghệ thuật. Đây không chỉ là một ví dụ đáng chú ý về kiến trúc thời Trung cổ mà còn là một kỳ công tuyệt vời.
Tu viện Mont-Saint-Michel trước đây từng được gọi là tu viện Benedictine, với thiết kế phản ánh phong cách La Mã. Nó phát triển mạnh mẽ, trở thành trung tâm hoạt động tôn giáo cùng văn hóa. Một số lượng lớn người hành hương - bao gồm cả các vị vua từ Pháp và Anh đã đến thăm tu viện trong nhiều thế kỷ. Mont-Saint-Michel dần trở thành nơi hành hương quan trọng của những người theo đạo Thiên Chúa kể từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 18. Hiện nay, việc quản lý tu viện được giao phó cho các tu sĩ Jerusalem. Núi cùng vịnh của nó từng hai lần có mặt trong danh sách Di Sản Thế Giới của UNESCO. Điều này đã giúp Mont-Saint-Michel thu hút 2,5 triệu khách du lịch mỗi năm, đồng thời trở thành một trong những địa điểm văn hóa hàng đầu được ghé thăm tại Pháp.
Bất chấp lịch sử đầy biến động của núi cùng với việc bị phá hủy phần phía trước, sự toàn vẹn của toàn bộ khu vực lẫn tu viện vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Những cuộc trùng tu vào thế kỷ 19 đã khôi phục lại vẻ trang nghiêm cũng như vẻ ngoài mang tính biểu tượng, đặc biệt là thông qua việc xây dựng ngọn tháp vào năm 1897. Các giá trị vẫn được duy trì bất chấp phù sa của vịnh do hiện tượng tự nhiên và việc đê đường vào năm 1879, khiến núi mất đi đặc tính của hòn đảo. Sau công trình quy mô lớn do nhà nước Pháp thực hiện, tính hàng hải của Mont-Saint-Michel đã được khôi phục vào năm 2015.
-
Tu viện Meteora - Hy Lạp
Những tu viện tại Meteora được cho là đã hình thành trước giữa thế kỷ 14 bởi một tu sĩ đến từ núi Athos - Thánh Athanasios the Meteorite. Meteora là một thành tạo đá thuộc khu vực Trikala-Hy Lạp. Nơi đây có một trong những dốc đá đứng lớn nhất mà người ta xây dựng nên các khu phức hợp tu viện Chính Thống giáo Đông Phương. Trong số 24 tu viện ban đầu, thì hiện nay còn 6 tu viện vẫn còn hoạt động. Chúng được xây dựng trên những cột trụ tự nhiên rộng lớn, cùng những tảng đá tròn giống như ngọn đồi thống trị khu vực địa phương. Giữa thế kỷ 13 và 14, các tu viện đã được thành lập; vị trí của Meteora nằm gần thị trấn Kalabaka, tại rìa phía tây bắc của đồng bằng Thessaly gần sông Pineios và dãy núi Pindus.
Sáu tu viện ngày nay tạo ra một khung cảnh thực sự đầy cảm hứng, với các khối đá choáng ngợp cùng những di tích cổ xưa. Về bản chất, Meteora hiện đã trở thành chiếc hòm bảo tồn tín ngưỡng Chính Thống giáo 2000 năm tuổi. 2 trong số 6 tu viện đó là Agios Stefanos và Roussanou là tu viện có các nữ tu; 4 tu viện còn lại là tu viện dành cho nam tu sĩ.
Tuy Meteora không được nhắc đến trong thần thoại Hy Lạp cổ điển cũng như trong văn học Hy Lạp cổ đại. Nhưng những người đầu tiên được ghi chép là sinh sống ở đây sau thời kỳ đồ đá là một nhóm tu sĩ khổ hạnh. Vào thế kỷ thứ 9 sau công nguyên, họ đã di chuyển lên các vùng cao, sống trong những hốc cùng khe nứt của các tháp đá; thậm chí một số nơi còn cao tới 550m so với đồng bằng. Ban đầu, các ẩn sĩ sống cuộc sống cô độc, họ chỉ gặp nhau vào ngày chủ nhật hay những ngày đặc biệt để cùng nhau cầu nguyện, thờ phượng trong một nhà nguyện được xây dựng dưới chân một tảng đá có tên là Dupiani. Ngay từ thế kỷ thứ 11, những tu sĩ này đã chiếm giữ các hang động ở Meteora. Tuy nhiên, các tu viện chỉ được xây dựng vào thế kỷ 14, khi họ tìm nơi ẩn náu trước những cuộc tấn công từ Thổ Nhĩ Kỳ vào Hy Lạp với số lượng ngày càng tăng. Vào thời điểm này, việc di chuyển lên đỉnh núi được thực hiện bằng thang hoặc kính chắn gió có thể tháo rời. Hiện nay, nó đã đơn giản hơn rất nhiều do có các bậc thang được khắc vào đá từ những năm 1920.
Năm 1988, Meteora đã được thêm vào danh sách Di Sản Thế Giới của UNESCO vì kiến trúc cùng vẻ đẹp nổi bật bởi khu phức hợp của nó, bên cạnh đó còn là ý nghĩa tôn giáo và nghệ thuật.
-
Tu viện Cassino Monte - Ý
Nằm ở vùng núi Lazio, tu viện xinh đẹp này được xem là ngôi nhà đầu tiên của dòng Benedectine. Nó được thành lập vào năm 529 bởi Thánh Benedict thành Nursia - vị Thánh bảo trợ của Châu Âu, người được coi là sáng lập nên tu viện ở phương tây. Tu viện Monte Cassino nằm trên địa điểm của một thành phố cổ có tường bao quanh, trong đó vẫn còn một số dấu hiệu của những bức tường "cyclopean" - đây là trường phái kiến trúc thời trung cổ, chúng được xây dựng bằng những tảng đá vôi khổng lồ lắp gần nhau với khoảng hở tối thiểu giữa các khối đá liền kề, sử dụng bằng vữa đất sét.
Trong gần 1.500 năm kể từ đó, tu viện Monte Cassino đã trải qua nhiều sự kiện đau thương. Chưa đầy 50 năm sau khi được xây dựng, nó đã bị quân xâm lược Lombard cướp phá khiến cho các tu sĩ đang cư trú phải chạy trốn đến Rome. Dù được tái lập vào năm 718 nhưng nó lại bị bỏ hoang vào năm 833 khi bị người Hồi giáo cướp phá và đốt cháy. Tu viện tiếp tục được xây dựng lại một lần nữa theo lệnh của Giáo Hoàng Agapetus II vào năm 949. Trong thế kỷ 11 và 12, nó trở thành công trình tôn giáo quan trọng nhất ở Ý, có được một lãnh thổ thế tục rộng lớn. Một trong những thư viện phong phú nhất ở châu Âu thời trung cổ cũng được đặt tại đây trong thời gian này, cùng các bằng chứng lâu đời nhất về tiếng Ý có trong thời kỳ cũng được viết trong tu viện.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Monte Cassino đã trở thành một phần quan trọng của phòng tuyến Gustav. Vào ngày 15 tháng 2 năm 1944, nó bị quân đồng minh bắn phá dữ dội vì hiểu lầm rằng được sử dụng làm trạm quan sát của Đức. Nhưng đây là nơi đang có nhiều thường dân ẩn náu bên trong, điều đó khiến cho hàng chục nghìn binh sĩ cùng hàng trăm người dân phải thiệt mạng trong trận chiến khét tiếng này. Sau sự kiện, tu viện được xây dựng lại lần cuối và nó vẫn nằm trên đỉnh núi. Hiện nay, Monte Cassino còn là nơi hành hương cũng như lưu giữ hài cốt của Thánh Benedict cùng người chị song sinh của Ngài - Thánh Scholastica; bên cạnh đó là những người đã cố gắng sống sót sau các sự kiện trong lịch sử lâu dài và đầy biến động của tu viện.
-
Tu viện Santa Maria de Montserrat - Tây Ban Nha
Santa Maria de Montserrat là tu viện của dòng Thánh Benedict nằm trên núi Montserrat, cách Barcelona-Tây Ban Nha 48km về phía tây bắc. Nó được thành lập vào thế kỷ 11 và được xây dựng lại giữa thế kỷ 19-20, vẫn hoạt động cho đến ngày nay với hơn 70 tu sĩ. Đây là nơi nghỉ dưỡng tôn giáo quan trọng nhất các nhóm thanh niên từ Barcelona cũng như khắp Catalonia, họ thường thực hiện các chuyến đi bộ đường dài qua đêm để ngắm bình minh từ đỉnh núi.
Tu viện Santa Maria de Montserrat là tác phẩm của kiến trúc sư Josep Puig i Cadafalch. Nơi đây gồm hai tầng được chống đỡ bởi các cột đá. Tầng dưới thông với khu vườn và có đài phun nước tại khu vực trung tâm. Trên các bức tường, người ta có thể nhìn thấy những tác phẩm cổ, một số trong đó thuộc về thế kỷ thứ 10. Khu vườn rộng lớn bao gồm 2 nhà nguyện Sant Iscle và Santa Victoria, mang phong cách La Mã.
Truyền thuyết nói rằng bức tượng Đức Trinh Nữ Montserrat nổi tiếng được tìm thấy từ năm 880. Sau đó, việc sùng bái bắt đầu được thực hiện ở bốn tu viện trước đây vào thế kỷ thứ 9 là: Santa Maria, Sant Iscle, Sant Pere và Sant Marti. Vào khoảng năm 1011, một tu sĩ tên Oliba từ tu viện Santa Maria de Ripoll đã được chỉ định lên núi để phụ trách tu viện Santa Cecilia de Montserrat. Vì không chấp nhận hoàn cảnh mới này nên Oliba quyết định thành lập một tu viện mới là Santa Maria de Montserrat vào năm 1025, tại nơi có một ẩn thất cũ cùng tên. Đây đã trở thành nơi ẩn náu quan trọng nhất trong số những nơi tồn tại trên núi nhờ bức tượng Đức Trinh Nữ được tôn kính ở đó.
Năm 1811-1812, trong cuộc xâm lược Tây Ban Nha của Napoleon, tu viện này đã hai lần bị quân đội đốt cháy cũng như cướp phá, đồng thời nhiều kho báu bị biến mất. Năm 1835, nó phải đóng cửa cho đến khi được trùng tu vào năm 1844.
Năm 1880, Montserrat kỷ niệm 1000 năm tồn tại. Và vào ngày 11 tháng 9 năm 1881, Đức Giáo Hoàng Leo XIII chính thức tuyên bố Trinh nữ Montserrat là vị Thánh người bảo trợ của Catalonia. Từ những năm 1940 trở đi, tu viện Santa Maria de Montserrat thường được coi là biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc. Ngày 27 tháng 4 năm 1947, một Thánh lễ được tổ chức để kỷ niệm Lễ đăng quang của Đức Trinh Nữ Montserrat, với sự tham dự của hơn 100.000 người. Bên cạnh đó, trong số các hoạt động khác, tu viện này đã đóng một vai trò đáng chú ý trong việc tích cực cung cấp nơi trú ẩn cho các nhà trí thức và nhà hoạt động chính trị bí mật thuộc nhiều phạm vi khác nhau.
-
Tu viện Tatev - Armenia
Tu viện Tatev nằm ở đông nam Armenia, trên rìa một hẻm núi sâu của sông Vorotan trong khu vực Syunik của người Armenia cổ. Cao nguyên Tatev đã được sử dụng từ thời tiền Thiên Chúa giáo, nơi có một ngôi đền ngoại giáo. Ngôi đền này được thay thế bằng một nhà thờ khiêm tốn sau quá trình Cơ Đốc hóa ở Armenia vào thế kỷ thứ 4. Sự phát triển của tu viện Tatev bắt đầu vào thế kỷ thứ 9 khi nó trở thành trụ sở Giám Mục của Syunik, và đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử khu vực với tư cách là trung tâm hoạt động kinh tế, chính trị, tinh thần, văn hóa. Tatev được mô tả là một trong hai tu viện nổi tiếng nhất ở đây, cùng với Noravank tại tỉnh Vayots Dzor.
Đến đầu thế kỷ 11, tu viện Tatev đã đón tiếp khoảng 1.000 tu sĩ cùng một số lượng lớn nghệ nhân. Trong cuộc xâm lược của Seljuk vào thế kỷ 12 cùng trận động đất năm 1136, nó đã bị thiệt hại đáng kể. Năm 1170, người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk đã cướp bóc tu viện và đốt khoảng 10.000 bản thảo. Nó được xây dựng lại nhờ nỗ lực của Giám Mục Stepanos vào gần cuối thế kỷ 13. Và với việc thành lập trường đại học ở thế kỷ 14, Tatev đã trở thành trung tâm chính của văn hóa Armenia.
Trong các chiến dịch năm 1381–1387, tu viện đã bị cướp phá, đốt cháy, đồng thời bị tước đoạt một phần lãnh thổ đáng kể. Tiếp theo đó, nó đã nhận thêm một đòn nữa trong cuộc xâm lược của Shah Rukh vào năm 1434.
Tatev được tái sinh vào thế kỷ 17 và 18; cấu trúc của nó bắt đầu khôi phục; bên cạnh đó, những cấu trúc mới cũng được thêm vào. Tuy nhiên, tu viện lại tiếp tục bị hư hại nghiêm trọng sau trận động đất năm 1931, mái vòm và tháp chuông cũng bị phá hủy. Trong những năm sau đó, dù đã được xây dựng lại nhưng tháp chuông vẫn giữ nguyên sự phá hủy cho đến ngày nay.
Ngoài các tòa xung quanh, tu viện Tatev còn tự hào có một cột trụ thẳng đứng, được gọi là Gavazan. Cột này được xây dựng vào thế kỷ thứ 10 sau khi hoàn thành nhà thờ Paul và Peter, nó đã sống sót sau nhiều cuộc xâm lược cũng như động đất. Vào thế kỷ 18, người ta đã bổ sung thêm nơi ở của Giám Mục, phòng cho các tu sĩ, nhà kho, phòng ăn, nhà bếp, tiệm bánh cùng nhà máy rượu; 16 phòng học hình chữ nhật có trần hình vòm được xây dựng dọc theo các mặt chính. Các tòa trường học của tu viện Tatev mang tính đặc trưng trong phong cách kiến trúc của giáo dục tu viện được sử dụng vào cuối thời kỳ trung cổ.
Năm 1995, các tu viện Tatev, Tatevi Anapat và những khu vực lân cận của thung lũng Vorotan đã được thêm vào danh sách dự kiến là Di Sản Thế Giới của UNESCO về khoa học và văn hóa liên hợp quốc.
-
Tu viện Ostrog - Montenegro
Ostrog là một tu viện của nhà thờ Chính Thống Serbia nằm trên một nền gần như thẳng đứng và cao trên tảng đá lớn Ostroska Greda, tại Montenegro. Đây là công trình kỳ diệu được xây dựng bởi sự kết hợp với thiên nhiên và giữa sự tương tác của con người. Nó được chạm khắc gần như toàn bộ trong một vách núi. Ngày nay, khu vực này được xem là hòn ngọc của chủ nghĩa tâm linh ở Montenegro. Sau “lăng mộ của Chúa Jesus” và “núi Thánh”, thì tu viện Ostrog là Thánh địa được viếng thăm nhiều thứ ba đối với người Kito giáo trên thế giới. Có hơn 100.000 người hành hương từ khắp nơi thuộc mọi tôn giáo ghé thăm nó hàng năm. Ostrog được thành lập để dành riêng cho Thánh Basil - người được chôn cất ở đây.
Tu viện Ostrog nằm ở độ cao 900m so với mực nước biển. Ở lối ra phía bên phải có một đài phun nước Thánh, được cho là có một số đặc tính chữa bệnh. Tu viện hạ Donji Manastir cách khuôn viên chính 3km, nằm ở trung tâm xung quanh nhà thờ Chúa Ba Ngôi với những bức bích họa sống động - được xây dựng vào năm 1824. Giữa tu viện thượng và tu viện hạ là nhà thờ Thánh Tử Đạo Stanko - xây dựng vào năm 2003, trong đó cũng lưu giữ bàn tay của vị Thánh này.
Qua nhiều thế kỷ ở vùng Ostrog, trong cảnh quan thiên nhiên khó tin của Montenegro, đất nước này đã được hình thành trong các thời kỳ hòa bình cũng như các thời kỳ hy vọng vào tự do. Những nhà thơ, nhà văn, chính khách cùng những người bình thường khác đã đến đặt chân đến đây để chiêm ngưỡng khu vực huyền bí, độc đáo này. Bên cạnh đó, Upper Ostrog là phần ấn tượng nhất của tu viện, nó có tháp chuông cao như một tòa nhà năm tầng, gây ấn tượng trong cung điện hang động hùng vĩ.
Theo truyền thống, những người hành hương sẽ đi bộ 3km từ tu viện bên dưới đến tu viện phía trên bằng chân trần. Trước khi vào nhà thờ để cầu nguyện trước Thánh Basil. Họ cũng sẽ quyên góp quần áo, chăn màn hoặc những vật dụng tiêu dùng như xà phòng cho các tu sĩ. Nơi đây sẽ tổ chức lễ kính vào ngày 12 tháng 5 hàng năm; vì Thánh Basil qua đời vào ngày 29 tháng 4 theo lịch Chính Thống Giáo - tương đương với ngày 12 tháng 5 theo lịch tây.
-
Tu viện Sumela - Thổ Nhĩ Kỳ
Sumela là tu viện Chính Thống Hy Lạp dành riêng cho Đức Maria tọa lạc tại Karadag, trong dãy núi Pontic, ở huyện Macka của tỉnh Trabzon-Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Sumela là từ ngữ xuất phát từ tiếng Hy Lạp “Sou Melá” - có nghĩa là "Núi Đen".
Ẩn mình trong một vách đá dựng đứng ở độ cao khoảng 1.200m đối diện với thung lũng Altindere - đây là địa điểm có ý nghĩa lịch sử và văn hóa to lớn. Do số lượng đá rơi ngày càng tăng, nên ngày 22 tháng 9 năm 2015, tu viện Sumela đã bị đóng cửa trong thời gian một năm, không cho công chúng tham quan vì lý do an toàn để giải quyết vấn đề. Nhưng cuối cùng sau đó sự việc này đã kéo dài đến hơn ba năm, cho đến khi nó mở cửa trở lại vào ngày 25 tháng 5 năm 2019.
Bộ Văn Hóa và Du Lịch Thổ Nhĩ Kỳ đã xác định niên đại hình thành của Sumela là vào khoảng năm 386 sau công nguyên, dưới thời trị vì của hoàng đế Theodosius I. Theo như kể lại, người thành lập tu viện là hai tu sĩ người Athen tên là Barnabas và Sophronios. Nó trở nên nổi tiếng nhờ một biểu tượng tranh vẽ Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) có tên gọi là Panagia Gorgoepekoos - được cho là do sứ đồ Luke vẽ. Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài của mình, Sumela dù nhiều lần bị đổ nát, bị phá hủy. Tuy nhiên, nó đã được các hoàng đế khác nhau khôi phục.
Sau cuộc chinh phục của Ottoman Mehmed II vào năm 1461, tu viện Sumela đã được quốc vương bảo vệ cũng như trao các đặc quyền. Nó vẫn là điểm đến phổ biến của các tu sĩ cùng du khách trong nhiều năm. Vào năm 1682 và trong những thập kỷ tiếp theo, nơi đây trở thành là trụ sở của Phrontisterion of Trapezous - một cơ sở giáo dục Hy Lạp nổi tiếng.
Các phần chính của khu phức hợp tu viện Sumela bao gồm: nhà thờ Đá, các nhà nguyện, nhà bếp, phòng học sinh, nhà khách, thư viện, một dòng suối thiêng được những người theo đạo Chính Thống Đông Phương tôn kính. Hệ thống dẫn nước lớn - nơi cung cấp nước cho tu viện, được xây dựng dựa vào vách đá với nhiều mái vòm hầu hết đã được phục hồi. Lối vào dẫn lên một cầu thang dài và hẹp, xuyên suốt từ đó vào sân trong. Ở bên trái, phía trước một hang động, có một số tòa tu viện. Hang động này đã được chuyển đổi thành nhà thờ, đồng thời trở thành trung tâm của tu viện. Tòa lớn nhất có ban công ở phía trước vách đá được sử dụng làm phòng của các tu sĩ và làm nơi ở cho khách.
Trong quá trình trùng tu năm 2015-2017, một đường hầm bí mật đã được phát hiện dẫn đến nơi được cho là nhà nguyện của những người theo đạo Thiên Chúa. Ngoài ra, những bức bích họa vô hình cũng được phát hiện mô tả hình ảnh giữa thiên đường và địa ngục, giữa sự sống và thế giới bên kia.
-
Tu viện Sagra di San Michele - Ý
Nằm trên một nền đất hùng vĩ ở độ cao 960m so với mực nước biển, tại miền bắc nước Ý; tu viện Sagra di San Michele được xây dựng trên đỉnh núi Pirchiriano. Nó nổi tiếng nhờ nhà văn Umberto Eco - người đã chọn nơi đây làm bối cảnh cho quyển tiểu thuyết bí ẩn từng đoạt giải thưởng The Name of the Rose (1980) của mình.
Truyền thuyết địa phương kể rằng tu viện này được xây dựng bởi Thánh John Vincent, để tôn vinh Michael - vị tổng lãnh thiên thần đã chiến thắng ác quỷ Lucifer. Theo bằng chứng văn bản đầu tiên về tu viện do một tu sĩ tên William viết: nó được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 10, ảnh hưởng của Byzantine được thể hiện qua các cột và mái vòm của hầm mộ. Mặt tiền theo phong cách La Mã, cao chót vót phía trên thung lũng, dẫn đến một cầu thang dốc mang tên “cầu thang của người đã khuất”, trên cùng là một cổng vào bằng đá cẩm thạch hùng vĩ có từ thế kỷ 12 được gọi là “cánh cửa của hoàng đạo”. Bên cạnh đó, còn có một gian giữa và hai lối đi, mang các yếu tố của cả kiến trúc Gothic cũng như La Mã.
Trong thế kỷ 11, cấu trúc của tu viện sau đó được giao cho các tu sĩ dòng Benedict - những người có thể dần dần phát triển ý nghĩa tâm linh của nó. Họ cung cấp nơi tị nạn cho những người hành hương cũng như bảo vệ người dân trong khu vực. Ở thời điểm này, nơi đây đã được mở rộng với việc các tu sĩ sáp nhập một tu viện nhỏ cùng một số phòng khách dành cho những người hành hương vào.
Cho đến thế kỷ 15, nó đã trải qua thời kỳ huy hoàng lịch sử vĩ đại nhất - trở thành một trong những trung tâm chính của linh đạo Benedict tại Ý. Vào thế kỷ 19, hội dòng các linh mục Rosminian cũng được thành lập ở đó. Năm 2016, bảo tàng của quần thể tu viện hoành tráng đã được hơn 100.000 người đến thăm. Tuy nhiên, trong đêm ngày 24 tháng 1 năm 2018, tu viện Sagra di San Michele đã bị hư hại nặng nề sau trận hỏa hoạn bùng phát trên mái nhà. Dù không bị ảnh hưởng đến phần quan trọng nhất về mặt kiến trúc, nhưng nó phải trải qua một cuộc trùng tu lớn để có thể hoàn thiện trở lại.
-
Tu viện Jvari - Cộng hòa Georgia
Được xây dựng trên đỉnh một ngọn đồi đá ở ngã ba sông Mtkvari và Aragvi ở Georgia, Đông Âu. Jvari là một tu viện Chính Thống Gruzia thế kỷ thứ 6, đồng thời cũng là một trong những ví dụ điển hình nhất về kiến trúc đặc trưng hiếm hoi của quốc gia này thời kỳ đầu thời Trung cổ vẫn tồn tại cho đến ngày nay, gần như không thay đổi. Bên cạnh đó, nó còn là Di Sản Thế Giới được UNESCO công nhận.
Theo truyền thuyết địa phương, đây là nơi mà Thánh Nino - một nữ truyền giáo từ thế kỷ thứ 4, đã dựng cây thánh giá to bằng gỗ trên ngôi đền ngoại giáo trước đó. Người ta cho rằng cây thánh giá này có thể làm nên những điều kỳ diệu; và do đó, nó thu hút những người hành hương từ khắp vùng Kavkaz. Dù không có tài liệu lịch sử nào có thể chứng minh tính xác thực của câu chuyện, nhưng điều chắc chắn là tu viện hiện tại có niên đại khoảng từ năm 590 - 605 khi vua Erismtavari Stepanoz I cai trị.
Jvari cho thấy rõ nó là về sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc cùng thiên nhiên. Trông tu viện như được mọc lên từ ngọn núi; mặt tiền phía tây gia cố bởi một bức tường đối kháng, gần như treo lơ lửng trên vách đá. Có hai lối vào, từ phía bắc và phía nam. Cả toà là hình chữ thập, kéo dài từ đông sang tây, mỗi nhánh kết thúc bằng các mái vòm hình bán nguyệt. Đây còn là một ví dụ điển hình về "kiến trúc có bốn mái với bốn hốc” - một kỹ thuật còn được gọi là “tetraconch” đã trở thành nét đặc trưng trong kiến trúc Georgian, truyền cảm hứng cho phong cách của nhiều nhà thờ cũng như tu viện khác trên vùng đất này.
Các tác phẩm điêu khắc đa dạng chịu ảnh hưởng của phong cách Hy Lạp và Sassanian được trang trí cho phần mặt tiền tu viện. Lối vào ở phía nam là bức phù điêu Tôn Vinh Thánh Giá, phía Bắc được bao bọc bởi một nhà thờ nhỏ xây dựng trước đó. Và có thể nhìn thấy từ xa, mặt tiền phía Tây thì không được trang trí. Khu phức hợp tu viện bao quanh bởi tàn tích của những bức tường có tháp, với lối vào có cổng từ phía đông.
Có nhiều tranh luận về việc xây dựng tu viện này, vì nó mang âm hưởng chủ nghĩa dân tộc ở cả Georgia lẫn Armenia. Mỗi quốc gia đều tuyên bố đã phát minh ra phong cách "kiến trúc bốn mái với bốn hốc" của Jvari.
Hiện nay, nơi đây đang ngày càng bị đe dọa do tình trạng xói mòn của mưa axit cùng gió mạnh.