Top 10 Nhà hóa học nổi tiếng nhất thế giới từ trước đến nay

Nguyễn Tăng Cường 37792 0 Báo lỗi

Trong hai nghìn năm qua, chúng ta đã tiến một bước dài trong khoa học. Chẳng hạn, chúng ta không còn nghĩ rằng mọi thứ đều được làm bằng nước hoặc lửa, hay cơ ... xem thêm...

  1. Marie Curie là nhà hóa học, nhà vật lý người Ba Lan. Bà là người tiên phong nghiên cứu về tính phóng xạ và là người đầu tiên nhận được hai giải Nobel trong cả hai lĩnh vực khác nhau là hóa học và vật lý. Cùng với Henri Becquerel và chồng là Pierre Curie, bà đã được trao giải Nobel Vật lý năm 1903. Bà là người duy nhất xuất sắc nhận giải Nobel hóa học trong năm 1911 cho nghiên cứu phát hiện hai nguyên tố hóa học là radium và polonium. Bà là người phụ nữ đầu tiên đoạt giải Nobel, và bà là người phụ nữ duy nhất đoạt giải trong hai lĩnh vực khác nhau.


    Trong suốt Thế chiến thứ nhất, Marie Curie, với sự giúp đỡ của con gái Irène, đã cống hiến hết mình cho việc phát triển việc sử dụng X-quang. Một trong những thành tựu nổi bật của Marie Curie là đã hiểu được nhu cầu tích lũy các nguồn phóng xạ cường độ cao. Vài tháng sau phát hiện này, Marie Curie qua đời do chứng thiếu máu bất sản do tác động của bức xạ. Tro cốt của Marie Curie được bảo quản trong Điện Panthéon ở Paris; bà là người phụ nữ đầu tiên nhận được vinh dự này vì những thành tựu của chính mình. Văn phòng và phòng thí nghiệm của bà trong Nhà trưng bày Curie của Viện Radium được bảo tồn như Bảo tàng Curie. Ứng dụng của hai nguyên tố hóa học là radium và polonium trong thực tế cuộc sống đã có ý nghĩa thật sự to lớn giúp tạo nguồn nhiệt để giữ ấm hoặc đột tạo ra nhiệt lượng. Bên cạnh đó chúng còn là nguyên liệu để chế tạo các loại pin cho thiết bị điện tử và để sản xuất điện hạt nhân.

      Marie Curie (1867 – 1934)
      Marie Curie (1867 – 1934)
      Marie Curie (1867 – 1934)
      Marie Curie (1867 – 1934)

    • Louis Pasteur là nhà hóa học, nhà vi sinh vật người Pháp, có đóng góp quan trọng trong ngành y học và hóa học. Ông là người đầu tiên phát minh ra vắc-xin phòng bệnh dại và bệnh than giúp giảm tỉ lệ tử vong cho rất nhiều người. Louis Pasteur nổi tiếng với những khám phá về nguyên tắc tiêm chủng, lên men vi sinh vật và thanh trùng. Tên của ông được đặt cho một chuỗi các viện nghiên cứu bằng vô số ngôn ngữ. Ô ng nghiên cứu về vi khuẩn học của nền kinh tế và ẩm thực Pháp, rượu vang và được Hoàng đế Napoleon III trao tặng huân chương cho những nỗ lực của mình.


      Bước đầu tiên trên con đường nổi tiếng của Louis Pasteur là kết quả của công việc nghiên cứu tinh thể học của tartar, dẫn đến những tiến bộ trong nghiên cứu axit racemic. Pasteur rất phấn khích trước khám phá của mình, đến nỗi ông lao ra khỏi phòng thí nghiệm của mình, bắt gặp người qua đường đầu tiên và kể cho anh ta tất cả về điều đó. Khám phá quan trọng nhất của ông trong lĩnh vực hóa học, đó là cơ bản về phân tử đối với tính không đối xứng của một số tinh thể nhất định và racemic hóa. Công trình nghiên cứu nổi bật của ông là công trình nghiên cứu về việc làm chua sữa và bảo quản sữa bằng cách đun nóng, đặt nền móng cho khoa học vi khuẩn học. Hai công trình nghiên cứu quan trọng để lại tiếng vang lớn là đưa ra những minh chứng thực tế về lý thuyết vi trùng và khám phá ra hiệu quả của vắc xin giảm độc lực trong việc xây dựng sức đề kháng đối với các bệnh truyền nhiễm.

        Louis Pasteur (1822 – 1895)
        Louis Pasteur (1822 – 1895)
        Louis Pasteur (1822 – 1895)
        Louis Pasteur (1822 – 1895)
      • John Dalton là nhà khí tượng học, nhà hóa học, nhà vật lý người Anh, ông trở nên nổi tiếng vì những đóng góp, lý giải trong thuyết nguyên tử và nghiên cứu về bệnh mù màu. Dalton đã có được kiến thức thực tế trong việc xây dựng và sử dụng các công cụ khí tượng cũng như hướng dẫn ghi chép thời tiết hàng ngày từ những nhà khí tượng học nghiệp dư ở Lake District. Dalton vẫn quan tâm đến việc đo đạc khí tượng trong suốt phần đời còn lại của mình.


        Vào năm 1808, John Dalton đã đưa ra lý thuyết nguyên tử để giải thích định luật bảo toàn khối lượng và định luật tỷ lệ các chất trong các phản ứng hóa học. Cho đến nay, công trình có ảnh hưởng nhất của Dalton trong lĩnh vực hóa học là thuyết nguyên tử. Tất cả lý thuyết của ông dựa trên năm giả thuyết sau đây:

        • Giả thuyết thứ nhất phát biểu rằng tất cả vật chất đều được tạo thành từ các nguyên tử.
        • Giả thuyết thứ hai là các nguyên tử của cùng một nguyên tố sẽ có cùng một cấu trúc và tính chất.
        • Giả thuyết thứ ba là các nguyên tử không thể bị phân chia, không thể được sinh ra hoặc mất đi.
        • Giả thuyết thứ tư là các nguyên tử của các nguyên tố khác nhau kết hợp với nhau để tạo ra các hợp chất.
        • Giả thuyết thứ năm là trong các phản ứng hóa học, các nguyên tử có thể kết hợp, phân tách hoặc tái sắp xếp lại.


        Ứng dụng của Lý thuyết của Dalton không chỉ giải thích các định luật trên mà còn là cơ sở để xây dựng các lý thuyết khác về nguyên tử sau này. Ông qua đời vì một cơn đột quỵ và được những người dân thành phố của ông tổ chức tương đương với một đám tang cấp nhà nước.

        John Dalton (1766 – 1844)
        John Dalton (1766 – 1844)
        John Dalton (1766 – 1844)
        John Dalton (1766 – 1844)
      • Mario Molina là nhà hóa học người Mỹ gốc Mexico, năm 1995 ông nhận Giải Nobel Hóa học khi là một trong ba người nghiên cứu về sự hình thành và phân hủy của tầng ozone. Mario Molina là người đầu tiên nhận ra rằng chlorofluorocarbon (CFCs) có thể phá hủy ozon. Năm 1974, ông và Rowland đã nhận biết các chất CFC có khả năng phá hủy tầng ozon. CFC được sử dụng làm chất làm lạnh, bình xịt, và tạo bọt nhựa. Đây là cơ sở quan trọng để các loại tủ lạnh ngày nay không sử dụng chất làm lạnh này.


        Nghiên cứu của Molina chỉ là giả thuyết dựa trên mô hình máy tính, nhưng kết quả của ông cho thấy CFCs trên lý thuyết có thể phá hủy một hợp chất oxy gọi là ôzôn trong các điều kiện tồn tại ở tầng trên của bầu khí quyển. Theo lý thuyết của Molina, các photon giống nhau từ ánh sáng cực tím có thể phá vỡ các phân tử oxy để tạo ra các nguyên tử oxy cũng có thể phá vỡ các CFC để giải phóng các nguyên tử clo, trong số các sản phẩm khác. Trong hai thập kỷ tiếp theo, ông và Molina đã trở thành những tiếng nói cảnh báo thế giới về mối nguy hiểm của khí CFC và sự suy giảm tầng ôzôn. Họ không phải lúc nào cũng được chú ý. Lệnh cấm CFC trong bình xịt có hiệu lực đầu tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1978 và sau đó ở Canada, Na Uy và Thụy Điển.


        Thành phố Mexico là nghiên cứu điển hình cho dự án này và cũng là nơi đặt trụ sở của Centro Mario Molina, nơi chuyên tìm kiếm giải pháp cho những thách thức liên quan đến biến đổi khí hậu, phát triển bền vững và sử dụng năng lượng hiệu quả. Các nhà khoa học, nhà hoạt động, chính trị gia và các công ty sản xuất CFC tranh luận trong nhiều năm về giá trị của các lý thuyết của Molina. Năm 2013 Molina đã được Barack Obama trao tặng Huân chương Tự do của Tổng thống vì những đóng góp của ông với tư cách là “nhà hóa học và nhà khoa học môi trường có tầm nhìn xa”.

        Mario Molina ( 1943 - 2020)
        Mario Molina ( 1943 - 2020)
        Mario Molina ( 1943 - 2020)
        Mario Molina ( 1943 - 2020)
      • Michael Faraday là nhà hóa học và nhà vật lý người Anh, đã có đóng góp trong lĩnh vực Điện từ học và Điện hóa học. Faraday đã trở thành một trong những người vĩ đại nhất trong các nhà khoa học của thế kỷ 19, ông bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một nhà hóa học. Ông đã viết một cuốn sổ tay hướng dẫn về hóa học thực hành cho thấy khả năng thành thạo các khía cạnh kỹ thuật trong nghệ thuật của mình, phát hiện ra một số hợp chất hữu cơ mới , trong số đó có benzen , và là người đầu tiên hóa lỏng một loại khí "vĩnh cửu" (tức là một chất được cho là không có khả năng hóa lỏng).


        Đóng góp lớn của Michael Faraday là trong lĩnh vực điện và từ tính. Ông là người đầu tiên tạo ra dòng điện từ trường, phát minh ra động cơ điện và máy nổ đầu tiên, chứng minh mối quan hệ giữa điện và liên kết hóa học , phát hiện ra tác dụng của từ tính đối với ánh sáng, phát hiện và đặt tên cho từ tính, hành vi đặc biệt của một số chất trong từ trường mạnh. Ông ấy đã cung cấp thực nghiệm và rất nhiều lý thuyết, nền tảng mà dựa vào đó James Clerk Maxwell đã xây dựng lý thuyết trường điện từ cổ điển. Năm 1820, ông đã sản xuất các hợp chất đầu tiên được biết đến của cacbon và clo. Những hợp chất này được tạo ra bằng cách thay thế clo cho hydro trong “khí olefin” (ethylene ), phản ứng thay thế đầu tiên được tạo ra. Năm 1825, nhờ kết quả của nghiên cứu về khí chiếu sáng, Faraday đã phân lập và mô tả benzen. Trong những năm 1820, ông cũng đã tiến hành các cuộc điều tra về hợp kim thép, giúp đặt nền móng cho khoa học luyện kim và kim loại học.

        Michael Faraday (1791 – 1867)
        Michael Faraday (1791 – 1867)
        Michael Faraday (1791 – 1867)
        Michael Faraday (1791 – 1867)
      • Alfred Nobel sinh ra tại Stockholm, Thụy Điển, là nhà hóa hóa, nhà kỹ nghệ, người phát minh ra thuốc nổ và là một triệu phú người Thụy Điển. Gia đình ông là hậu duệ của Olof Rudbeck, thiên tài kỹ thuật nổi tiếng nhất Thụy Điển vào thế kỷ 17, thời đại mà Thụy Điển là một cường quốc trong Bắc Âu. Ông là người sáng lập ra Giải thưởng Nobel danh giá cho những đóng góp xuất sắc của các nhà khoa học trên toàn thế giới. Nobel thông thạo một số ngôn ngữ, viết thơ và kịch. Nobel cũng rất quan tâm đến các vấn đề liên quan đến xã hội và hòa bình, và có những quan điểm được coi là cấp tiến trong thời của ông.


        Năm 1863, Alfred Nobel đã phát minh ra một thiết bị nổ thực tế bao gồm một phích cắm bằng gỗ được cắm vào một lượng nitroglycerin lớn hơn được giữ trong một hộp kim loại; sự bùng nổ của hạt bột đen tích điện nhỏ của phích cắm phục vụ cho việc kích nổ điện tích nitroglycerin lỏng mạnh hơn nhiều. Kíp nổ này đã đánh dấu sự khởi đầu cho danh tiếng của Nobel với tư cách là một nhà phát minh cũng như tư cách là một nhà chế tạo chất nổ. Năm 1865, Nobel đã phát minh ra một ngòi nổ cải tiến được gọi là nắp nổ; nó bao gồm một nắp kim loại nhỏ chứa điện tích fulminat thủy ngân có thể phát nổ bởi cú sốc hoặc nhiệt độ vừa phải. Việc phát minh ra mũ nổ đã mở đầu cho việc sử dụng chất nổ cao hiện đại.


        Phát minh quan trọng thứ hai của Nobel là thuốc nổ vào năm 1867. Nobel đặt tên cho sản phẩm mới là thuốc nổ (từ tiếng Hy Lạp là “power”) và được cấp bằng sáng chế cho nó ở Anh (1867) và Hoa Kỳ (1868). Dynamite đã tạo nên danh tiếng của Nobel trên toàn thế giới và nhanh chóng được đưa vào sử dụng trong các đường hầm, cắt kênh, xây dựng đường sắt và đường bộ. Vào năm 1875, ông đã phát minh ra một dạng thuốc nổ mạnh hơn, nổ gelatin , ông được cấp bằng sáng chế vào năm sau. Bên cạnh chất nổ, Nobel còn thực hiện nhiều phát minh khác, chẳng hạn như tơ nhân tạo và da thuộc.

        Alfred Nobel (1833 – 1896 )
        Alfred Nobel (1833 – 1896 )
        Alfred Nobel (1833 – 1896 )
        Alfred Nobel (1833 – 1896 )
      • Rosalind Franklin là nhà hóa học, nhà lý sinh học người Anh gốc Do Thái, bà nổi tiếng với những đóng góp trong việc khám phá ra cấu trúc phân tử của axit deoxyribonucleic (DNA), một thành phần của nhiễm sắc thể dùng để mã hóa thông tin di truyền. Franklin cũng đã đóng góp những hiểu biết mới về cấu trúc của virus , giúp đặt nền móng cho lĩnh vực virus học cấu trúc. Từ năm 1947 đến năm 1950, bà làm việc với Jacques Mesring tại Phòng thí nghiệm Hóa học Nhà nước ở Paris, nghiên cứu công nghệ nhiễu xạ tia X. Công việc đó đã dẫn đến nghiên cứu của cô ấy về những thay đổi cấu trúc gây ra bởi sự hình thành than chì trong các nguyên tử cacbon bị nung nóng - công trình chứng minh có giá trị đối với ngành luyện cốc.


        Năm 1951, Franklin gia nhập Phòng thí nghiệm Lý sinh tại Đại học King's College, London, với tư cách là thành viên nghiên cứu. Ở đó, bà đã áp dụng phương pháp nhiễu xạ tia X để nghiên cứu DNA. Tuy nhiên, bà sớm phát hiện ra mật độ của DNA và quan trọng hơn là xác định rằng phân tử này tồn tại ở dạng xoắn ốc. Công việc của bà nhằm làm rõ ràng hơn các mẫu tia X của các phân tử DNA đã đặt nền tảng cho James Watson và Francis Crick vào năm 1953 cho rằng cấu trúc của DNA là một polime xoắn kép, một hình xoắn ốc bao gồm hai sợi DNA quấn quanh nhau. Bà đã hợp tác trong các nghiên cứu cho thấy rằng axit ribonucleic (RNA) trong vi rút đó được nhúng trong protein của nó chứ không phải trong khoang trung tâm của nó và RNA này là một chuỗi xoắn đơn, chứ không phải là chuỗi xoắn kép được tìm thấy trong DNA của vi rút vi khuẩn và các sinh vật bậc cao.

        Rosalind Franklin (1920 – 1958)
        Rosalind Franklin (1920 – 1958)
        Rosalind Franklin (1920 – 1958)
        Rosalind Franklin (1920 – 1958)
      • Antoine Lavoisier là nhà hóa học nổi tiếng người Pháp và là nhân vật hàng đầu trong cuộc cách mạng hóa học thế kỷ 18, người đã phát triển một lý thuyết dựa trên thực nghiệm về phản ứng hóa học của oxi và đồng ủy quyền cho hệ thống hiện đại để gọi tên các chất hóa học. Ông đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong lĩnh vực hóa học như tìm ra định luật bảo toàn khối lượng, năm 1777 đề ra lý thuyết về sự oxi hóa các chất. Với những đóng góp đó ông được mệnh danh là cha đẻ của ngành hóa học hiện đại.


        Lavoisier bắt đầu theo đuổi nghiên cứu khoa học mà vào năm 1768, ông được nhận vào hội triết học tự nhiên hàng đầu của Pháp , Học viện Khoa học ở Paris. Lavoisier tin rằng vật chất không được tạo ra cũng như không bị phá hủy trong các phản ứng hóa học, và trong các thí nghiệm của mình, ông đã tìm cách chứng minh rằng niềm tin này không bị vi phạm khẳng định rằng khối lượng được bảo toàn trong các phản ứng hóa học, một giả định của các nhà nghiên cứu thời Khai sáng. Lavoisier phải mất nhiều năm và sự giúp đỡ đáng kể của những người khác để đạt được mục tiêu này.


        Trong lịch sử kinh điển của hóa học, Lavoisier được tôn vinh là nhà lãnh đạo của cuộc cách mạng hóa học thế kỷ 18 và do đó là một trong những người sáng lập ra hóa học hiện đại. Lavoisier thực sự là một nhà điều tra không mệt mỏi và khéo léo; tuy nhiên, các thí nghiệm của ông nhấn mạnh đến việc định lượng và chứng minh hơn là mang lại những khám phá quan trọng. Sự nhấn mạnh như vậy phù hợp với quyết tâm của ông trong việc nâng cao hóa học lên cấp độ của một khoa học. Đến năm 1785, lý thuyết đốt cháy mới của ông đã được ủng hộ và chiến dịch tái tạo lại hóa học theo các nguyên tắc của nó bắt đầu.

        Antoine Lavoisier (1743 – 1794)
        Antoine Lavoisier (1743 – 1794)
        Antoine Lavoisier (1743 – 1794)
        Antoine Lavoisier (1743 – 1794)
      • Ahmed Zewail là nhà hóa học người Mỹ gốc Ai Cập, năm 1999, ông đoạt Giải Nobel Hóa học vì là người tiên phong trong việc điều tra, nghiên cứu các phản ứng hóa học cơ bản, sử dụng tia laser cực ngắn trên thang thời gian mà các phản ứng xảy ra. Ông đã thực hiện nghiên cứu tốt nghiệp của mình về quang phổ mới, bao gồm cả cộng hưởng từ được phát hiện bằng quang học, với Robin Hochstrasser tại Đại học Pennsylvania ở Philadelphia. Công trình sau tiến sĩ của ông là về tính liên kết trong các hệ thống đa chiều và truyền năng lượng trong chất rắn, với Charles B. Harris tại Đại học California, Berkeley.


        Trong suốt những năm 1980 và hầu hết những năm 1990, Ahmed Zewail đã dẫn dắt nhóm của mình thực hiện các thí nghiệm về 'hóa nữ' - tiền đúc của ông để gây ra và theo dõi các phản ứng bằng cách sử dụng các xung ánh sáng kéo dài dưới một pico giây (một phần triệu của một phần triệu giây). Đây là thời gian của các phản ứng hóa học ở cấp độ phân tử - thời gian của các dao động và chuyển động hạt nhân. Với công trình này, ông đã trở thành người duy nhất nhận giải Nobel Hóa học năm 1999. Trước sự ra đời của những tia laser cực nhanh như vậy vào những năm 1970, ý tưởng của các nhà hóa học về động lực học của các phân tử ở trạng thái kích thích rất khác so với ngày nay.


        Thông qua các thí nghiệm, nhóm của ông đã làm sáng tỏ động lực học phản ứng, làm sáng tỏ các con đường phân tử và làm sáng tỏ sự tiến hóa cơ lượng tử của các nguyên tử trong phân tử. Công cụ kinh điển đối với ông là thí nghiệm bơm-thăm dò. Ở đây, xung đầu tiên (máy bơm) bắt đầu phản ứng hóa học, và xung thứ hai (đầu dò) theo dõi những gì xảy ra tiếp theo. Bằng cách này, ông và nhóm của mình đã chụp nhanh dòng chảy dao động, sự sắp xếp lại trạng thái và các sản phẩm phản ứng. Sau giải Nobel, trọng tâm nghiên cứu của Zewail chuyển sang một dạng kính hiển vi mới sử dụng các xung điện tử siêu nhanh để theo dõi các phản ứng trong không gian và thời gian ở quy mô nguyên tử.

        Ahmed Zewail (1946 – 2016)
        Ahmed Zewail (1946 – 2016)
        Ahmed Zewail (1946 – 2016)
        Ahmed Zewail (1946 – 2016)
      • Dmitri Mendeleev là nhà hóa học và nhà phát minh người Nga, ông đã tạo bước ngoặt lớn trong lịch sử nghiên cứu hóa học khi tạo ra bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, từ đó dự đoán được tính chất của các nguyên tố chưa được phát hiện. Được tài trợ bởi học bổng của chính phủ, anh đã đi du học hai năm tại Đại học Heidelberg. Thay vì hợp tác chặt chẽ với các nhà hóa học nổi tiếng của trường đại học, bao gồm Robert Bunsen, Emil Erlenmeyer và August Kekulé , ông đã thiết lập một phòng thí nghiệm trong căn hộ của riêng mình.


        Ông còn phát hiện ra nhiệt độ sôi tới hạn. Mendeleev nhận thấy rằng, khi tất cả những các nguyên tố hóa học được sắp xếp theo thứ tự khối lượng nguyên tử tăng dần, bảng kết quả hiển thị dạng tuần hoàn hoặc tính tuần hoàn của các thuộc tính trong các nhóm nguyên tố. Trong phiên bản của anh ấy về bảng tuần hoàn năm 1871, ông đã để lại những khoảng trống ở những nơi mà ông tin rằng các nguyên tố chưa biết sẽ tìm thấy vị trí của chúng. Ông thậm chí còn dự đoán các thuộc tính có thể có của ba trong số các nguyên tố tiềm năng. Bằng chứng sau đó về nhiều tiên đoán của ông trong cuộc đời của mình đã mang lại danh tiếng cho Mendeleev với tư cách là người sáng lập ra định luật tuần hoàn.


        Định luật mới được xây dựng của ông đã được công bố trước Hiệp hội Hóa học Nga vào tháng 3 năm 1869 với tuyên bố "các nguyên tố được sắp xếp theo giá trị trọng lượng nguyên tử của chúng thể hiện tính tuần hoàn rõ ràng." Định luật Mendeleev cho phép ông xây dựng một bảng hệ thống của tất cả 70 nguyên tố đã biết. Ông đề xuất thay đổi các giá trị được chấp nhận chung cho trọng lượng nguyên tử của một số nguyên tố và dự đoán vị trí trong bảng các nguyên tố chưa biết cùng với tính chất của chúng. Lúc đầu, hệ thống tuần hoàn không được các nhà hóa học quan tâm. Tuy nhiên, với việc phát hiện ra các nguyên tố đã được tiên đoán, đặc biệt là gali, scandium và germain, hệ thống tuần hoàn bắt đầu giành được sự chấp nhận rộng rãi và đã trở thành khuôn khổ cho một phần lớn lý thuyết hóa học.

        Dmitri Mendeleev (1834 – 1907)
        Dmitri Mendeleev (1834 – 1907)
        Dmitri Mendeleev (1834 – 1907)
        Dmitri Mendeleev (1834 – 1907)



      Công Ty cổ Phần Toplist
      Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
      Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
      Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
      Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
      Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy